Học viện Mục vụ: Thần học bối cảnh và đào tạo giáo lý viên

Học viện Mục vụ: Thần học bối cảnh và đào tạo giáo lý viên

WGPSG -- Với đề tài “Thần học bối cảnh và đào tạo giáo lý viên”, buổi thảo luận trong chương trình sinh hoạt Chuyên đề tháng Ba 2014 của Học viện Mục vụ - Ủy ban giáo lý đức tin thuộc Hội đồng GMVN đã được tổ chức vào sáng ngày 1/3/2014 tại hội trường GB Phạm Minh Mẫn - Trung tâm Mục vụ TGP TPHCM.

Chủ tọa chương trình là cha Phêrô Nguyễn Văn Hiền, Tổng thư ký UBGLĐT thuộc HĐGMVN; bên cạnh đó, còn có sự hiện diện của cha Phanxicô Xaviê Bảo Lộc, Trưởng ban Đối thoại liên tôn TGP và cha Gioan Lê Quang Việt, Trưởng ban Mục vụ Giới trẻ TGP. Đối tượng tham gia là các học viện bạn, quý giảng viên, các giáo lý viên thuộc nhiều giáo xứ, tu sĩ nam nữ các Dòng tu và Tu hội cùng nhiều giáo dân quan tâm đến việc giảng dạy giáo lý trong đời sống hiện nay.

Mở đầu buổi thảo luận, cha Giám đốc Học viện Mục vụ đã có những gợi mở, hướng dẫn để các tham dự viên dễ dàng đón nhận những kiến thức về suy tư Thần học bối cảnh và giải đáp những thắc mắc của quý anh chị GLV trong quá trình giảng dạy giáo lý tại giáo xứ, địa phương của mình. Chuyên đề gồm 2 đề tài:

Đề tài thứ nhất:

•    Thần học bối cảnh là gì? Linh mục Giuse Nguyễn Văn Am thuyết trình.

-    Những kinh nghiệm trong huấn giáo

Đời sống người tín hữu Công giáo hiện nay đòi hỏi những người có trách nhiệm hướng dẫn và giảng dạy giáo lý hết mực quan tâm đến những nhu cầu tinh thần của anh chị em mình, đặc biệt với những người khác tôn giáo trong việc truyền đạt và cảm thụ giáo lý của Đức Kitô. Chính vì thế, việc suy tư đức tin trong bối cảnh để có thể thông truyền đức tin ấy cho những đối tượng trên là một việc làm cần thiết. Tại sao? Một trong những ưu tư chính đáng của những GLV khi tham gia giảng dạy là mong muốn nắm thật vững kiến thức đức tin thật chính thống và có những băn khoăn là tôi trình bày có đúng không, có lạc giáo? Hoặc trình bày cùng một kiến thức đức tin đó cho mọi đối tượng, như: lớp Khai Tâm, Thêm Sức, Bao Đồng, và Dự tòng với những thuật ngữ chuyên môn không khác nhau. Hay lớp giáo lý của người Kinh và lớp giáo lý của người Dân tộc đều vang lên một ngôn ngữ... Chúng ta hình như không quan tâm hay không để ý họ là ai, trình độ học vấn, làm công việc gì? Do đó, việc rao giảng Tin Mừng càng lúc càng buồn chán, rời rạc, khuôn mặt của Giêsu càng xa rời họ. Trong khi đó, mục đích của thần học là mang Thiên Chúa đến gần với họ hơn.

-    Tiếng kêu mời từ giữa lòng nhân loại

Ngược dòng lịch sử truyền giáo tại Việt Nam, theo kinh nghiệm của vị Thừa Sai Dòng Tên Francesco Buzomi, khi xem xong vở hài kịch diễn cảnh Rửa tội cho người bản địa, vị Thừa Sai ấy đã biết rút ra thứ ngôn ngữ gần gũi nhưng chính xác để diễn đạt câu hỏi: “Con có muốn vào đạo Kitô chăng?” thay vì dùng câu nói “Này nhỏ, mày có muốn vào bụng của người Bồ Đào Nha không?”. Không chỉ quan tâm đến sứ điệp Tin Mừng được trình bày mà còn nhạy bén trước những con người nghe, nhờ ánh sáng đức tin và nhiệt tình loan báo Tin Mừng. Chính những người loan báo Tin Mừng có thể nhận ra và đọc được những dấu chỉ của Thiên Chúa. Bên cạnh đó, việc hội nhập văn hóa hay xây dựng một nền thần học cho địa phương quả là cần thiết và là một bổn phận, bắt buộc của người làm công việc rao giảng Tin Mừng.

-    Khám phá sự tương tác giữa ba yếu tố: Sứ điệp, người giải thích và bối cảnh

Một sứ điệp có giá trị không bao giờ đứng riêng biệt, tự nó. Sứ điệp luôn được gởi đến những con người cụ thể với những yếu tố văn hóa, xã hội, chính trị và tôn giáo. “Tin Mừng sẽ chỉ có ý nghĩa đối với chúng ta nếu nó rõ ràng liên hệ với tình trạng đương thời của chúng ta. Và chúng ta chỉ có thể sống Tin Mừng nếu chúng ta hiểu những nhu cầu của thời đại chúng ta và chỗ đứng của mình” (Howland Sanks).

Hình ảnh “Hạt lúa mì” rơi vào lòng đất trong Phúc Âm đã gợi lên trong chúng ta một đức tin chưa hội nhập văn hóa vẫn còn là cằn cỗi, và văn hóa không có đức tin sẽ chẳng thể tìm gặp được chính mình. Như thế, một đức tin trưởng thành chắc chắn là một đức tin hội nhập văn hóa, và một đức tin hội nhập văn hóa sẽ cho thấy một Giáo hội trưởng thành và mang đến cho xã hội và thời đại đó là điều họ khao khát nhất: Chúa Giêsu và ơn cứu độ - hạnh phúc đích thực.

•    Thế nào là nền thần học chân chính? có bốn yếu tố sau:

1.    Để ý đến nhân vị

Thiên Chúa luôn dành chỗ hàng đầu cho con người, ngay cả những lễ tế cũng không sánh bằng những nhân vị. Ngay cả ngày Sabat cũng để phục vụ cho con người. Theo tinh thần này, cách chúng ta trình bày giáo lý không cần biết đến người nghe và khao khát của họ, vô tình hay hữu ý chúng ta bày ra một Thiên Chúa vô cảm.

2.    Sự hiểu biết đức tin ngày một thích hợp hơn

Đức tin nhắm tới chính là Đức Giêsu. Đức tin không được nhìn nhận như báu vật được chôn giấu. Đức tin phải được tăng trưởng, cùng theo mức độ lý trí của con người lớn lên.

3. Canh tân lòng yêu mến Giáo hội

4. Có thể kiến tạo một phụng vụ được hội nhập văn hóa

Phụng vụ của Giáo hội địa phương có thể chắt lọc những gì sâu xa của văn hóa địa phương để ca tụng, ngợi khen, cảm tạ Thiên Chúa ở một chiều sâu, chứ không phải chỉ ở dáng vẻ bên ngoài.

Kết luận

Xây dựng nền thần học bối cảnh chân chính là mối quan tâm hàng đầu của Giáo hội Công giáo Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Như Công đồng Vaticano II đã đề cập đến “Giáo hội lữ hành” của ngày hôm nay. Nghĩa là chấp nhận cùng đi và đối thoại với mọi tôn giáo để tìm ra chân lý. Và mục đích cuối cùng là đến được với Đấng là khởi thủy và tận cùng của mọi điều thiện hảo là Thiên Chúa yêu thương.

Đề tài thứ hai:

•    Đào tạo giáo lý viên hiện nay? Linh mục Antôn Hà Văn Minh thuyết trình
Đặt vấn đề:

Từ những thập niên 90 trở về đây, cùng với xu hướng đổi thay nhanh chóng của xã hội. Giáo hội Việt Nam cũng không đứng ngoài những biến chuyển ấy, thậm chí phải đối diện với những thách thức, vấn đề nóng bỏng của xã hội. Để có thể đối thoại và có những phương pháp huấn luyện những người giảng dạy giáo lý trong điều kiện hoàn cảnh như thế, thì việc đào sâu suy tư thần học là cần thiết, xin gợi mở những nét chính sau:

-    Hoàn cảnh xã hội

Việt Nam là mảnh đất đa tôn giáo và tín ngưỡng, có sáu tôn giáo lớn đang hiện diện: Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Cao Đài, Hòa Hảo và nhiều tín ngưỡng khác. Hằng năm, có khoảng 8000 lễ hội tôn giáo hoặc tín ngưỡng cấp quốc gia và địa phương tổ chức. Quan sát, ta nhận thấy người dân Việt rất nhạy cảm về các lãnh vực thuộc tâm linh, vì thế họ sẵn sàng biểu lộ niềm tin dưới mọi hình thức, miễn sao họ có được cảm giác, tâm thức “có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Với tâm thức này, niềm tin vào một vị thần linh không hẳn là hướng tới một cuộc sống mai sau nhưng là ngay cuộc sống hiện tại, như: sức khỏe, thành đạt trong công việc, một cuộc sống bình an, ấm no. Quan niệm “đạo nào cũng tốt” trở thành cách thế biểu tỏ sự kiên vững niềm tin của mình. Mặt khác, thái độ sống thực dụng của các bạn trẻ Việt Nam hôm nay đã hình thành trào lưu thụ hưởng khoái lạc và coi đó là cứu cánh của cuộc sống, xa dần niềm tin tôn giáo. Họ coi những nền tảng tôn giáo là rào cản, cần phá bỏ. Những trào lưu như: sống thử trước hôn nhân, phá thai, ly dị, kết hôn đồng tính hay hội chứng bị lên án thời gian gần đây: “không cho yêu thì giết”.

Việc đối thoại của suy tư thần học trước bối cảnh này.

Dựa vào tư tưởng của Công đồng Vaticanô II - Hiến chế Lumen Gentium - để suy tư về một Giáo hội hiệp thông, đã đưa ra ba yếu tố sau:

1. Như là “Dân Chúa” lữ hành. Giáo hội Việt Nam trên đường lữ hành về nhà Cha không bước đi đơn độc một mình. Trên con đường lữ hành, Giáo hội VN gặp gỡ biết bao người Việt đang khao khát chân lý, và qua sự gặp gỡ này, GHVN như người bạn đồng hành, sẽ cùng trao đổi với họ và chuyển trao cho họ niềm hy vọng đang nung nấu GH. Đó chính là “Con đường hiệp thông và sự hy vọng”. Sự gặp gỡ và đối thoại này được diễn đạt bằng thứ ngôn ngữ của trái tim, như Đức Thánh Cha Phanxicô đã phát biểu với hàng trăm tín hữu Tin Lành thuộc phái Ngũ Tuần, qua GM Tin Lành Tony Palmer ngày 14/1/2014 vừa qua: “....Ngôn ngữ này có văn phạm đơn giản với hai luật: Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu mến tha nhân vì họ là anh chị em của chúng ta. Với hai luật ấy, chúng ta có thể tiến về phía trước”.

2. Giáo hội cũng là cộng đoàn của những người tội lỗi. Khi ý thức về thân phận yếu hèn tội lỗi của mình, GHVN sẽ làm cho dân Việt cảm nghiệm được về chính mình qua việc biểu tỏ một GHVN khiêm nhu, luôn sẵn sàng lắng nghe người khác nói về mình, cũng như chính mình tự kiểm điểm việc thi hành sứ vụ của mình. Qua thái độ khiêm nhu, GH sẽ thể hiện sự bao dung và cảm thông hơn, sẽ bớt đi những kết án và loại trừ. Như Đức Thánh Cha Phanxicô, khi đề cập đến vấn đề đồng tính, đã có quan điểm như sau: “Nếu một người là đồng tính và đang kiếm tìm Thiên Chúa và có thiện chí, thì tôi là ai mà tự cho mình quyền phán xét người ấy?”

3. Là một Giáo hội đoàn kết với người nghèo. Nghĩa là, GH phải bén rễ sâu trong lòng dân tộc Việt như là GH giữa và với người nghèo. Nơi mà người nghèo trở thành chủ thể của các hành động GH.

Công việc đào tạo giáo lý viên trong tình hình hiện nay qua việc suy tư thần học:

1. Việc suy tư thần học phải được thực hiện thường xuyên. Công việc thiêng liêng này sẽ giúp GLV minh định lại lập trường đức tin của mình, không chỉ là nội dung đức tin, nhưng còn phương cách truyền đạt đức tin, một đức tin không đóng khung trong các công thức, nhưng sống động qua một hành trình cảm nghiệm về một cuộc gặp gỡ cá vị với Đức Kitô.

2. Việc suy tư thần học như là động lực giúp GLV biến đổi chính mình để biến đổi người khác.

Đối thoại là cách thế đạt hiệu quả nhất trong việc thông truyền đức tin, như (2Cr 6, 6-7) đã viết: “Chúng tôi còn chứng tỏ điều đó bằng cách ăn ở trong sạch, khôn khéo, nhẫn nhục, nhân hậu, bằng một tinh thần thánh thiện, một tình thương không giả dối, bằng lời chân lý, bằng sức mạnh của Thiên Chúa”. Phải cố gắng tỏa ánh sáng sự sống với tất cả lòng tin tưởng vững chắc, và lòng can đảm của người tông đồ, cho dù phải đổ máu. Như vậy, giảng viên giáo lý được đòi hỏi phải thực hiện những giờ chiêm niệm đích thật, những kinh nghiệm về các cuộc gặp gỡ thân mật với Chúa là ngôn ngữ thiết yếu để đối thoại với anh chị em thuộc tôn giáo bạn. Ngoài ra, những GLV cố gắng biến đổi cuộc sống của mình theo gương của Đức Giêsu để anh chị em chúng ta nhìn thấy gương mặt của Đức Giêsu trong đời sống hằng ngày.

Tóm lại, trong công việc giảng dạy giáo lý hiện nay, để tránh những thiếu sót, khô cứng trong việc thông truyền đức tin, các GLV phải thường xuyên tiếp xúc với những suy tư thần học, không đóng lòng mình; trong tư duy và hành động, phải được soi sáng bằng ánh sáng Tin Mừng, nghĩa là mang Chúa Giêsu nhập thế và nhập thể đến trong và ở giữa chúng ta.

bài liên quan mới nhất

bài liên quan đọc nhiều

Top