Tông huấn Dilexi Te của Đức Thánh Cha Lêô XIV ​​​​​​​về tình yêu thương người nghèo

Tông huấn Dilexi Te của Đức Thánh Cha Lêô XIV ​​​​​​​về tình yêu thương người nghèo

Tông huấn Dilexi Te của Đức Thánh Cha Lêô XIV ​​​​​​​về tình yêu thương người nghèo

Tông huấn
DILEXI TE

của Đức Thánh Cha Lêô XIV
gửi tất cả các Kitô hữu

về tình yêu thương người nghèo

(Lm. Giuse Lê Công Đức, PSS, dịch)

1. “TA ĐÃ YÊU THƯƠNG NGƯƠI” (Kh 3,9). Chúa phán những lời này với một cộng đoàn tín hữu vốn không giống như một số cộng đoàn khác, chẳng có ảnh hưởng hay các nguồn lực, thay vào đó lại bị đối xử bằng bạo lực và khinh miệt: “Ngươi ít thế lực… Ta sẽ bắt chúng phải đến phủ phục dưới chân ngươi” (Kh 3,8-9). Đoạn văn này nhắc chúng ta nhớ đến bài thánh ca của Đức Maria: “Chúa hạ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng, và nâng cao những người bé mọn; Chúa cho kẻ đói khát được no đầy, và đuổi người giàu có về tay trắng” (Lc 1,52-53).

2. Tuyên ngôn tình yêu này, trích từ sách Khải huyền, phản ánh mầu nhiệm vô tận mà Đức Giáo hoàng Phanxicô đã suy tư trong Thông điệp Dilexit Nos về tình yêu nhân loại và thần linh của Trái Tim Chúa Giêsu Kitô. Trong đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đồng hóa mình với “những tầng lớp thấp kém nhất của xã hội”, và với tình yêu tuôn đổ đến cùng, Người xác nhận phẩm giá của mọi con người, nhất là khi “họ yếu đuối, bị khinh miệt, hoặc đau khổ” [1] Khi chiêm ngắm tình yêu của Chúa Kitô, “chúng ta cũng được thúc đẩy để quan tâm hơn đến những đau khổ và nhu cầu của người khác, và được củng cố trong những nỗ lực của chúng ta để tham gia vào công cuộc giải phóng của Người, như những khí cụ làm lan tỏa tình yêu của Người”.[2]

3. Vì lý do này, để tiếp nối Thông điệp Dilexit Nos, Đức Thánh Cha Phanxicô trong những tháng cuối đời đã soạn thảo một Tông huấn về sự quan tâm của Giáo hội đối với người nghèo, với tựa đề Dilexi Te, như thể Chúa Kitô đang nói những lời này với từng người trong họ: “Ngươi ít thế lực,” nhưng “Ta đã yêu thương ngươi” (Kh 3,9). Tôi rất vui mừng được lấy văn kiện này làm của mình – bổ sung một số suy tư – và ban hành nó vào đầu triều đại giáo hoàng của tôi, vì tôi chia sẻ mong muốn của vị tiền nhiệm kính yêu, đó là mong tất cả các Kitô hữu đều nhận thức được mối liên hệ mật thiết giữa tình yêu của Chúa Kitô và lời Người kêu gọi chăm sóc người nghèo. Tôi cũng coi là thiết yếu việc phải nhấn mạnh con đường nên thánh này, vì “trong tiếng gọi nhận ra Người nơi người nghèo và những người đau khổ, chúng ta thấy tỏ lộ chính trái tim của Chúa Kitô, những tình cảm và những lựa chọn sâu xa nhất của Người, mà tất cả các thánh đều tìm cách noi theo.”[3]

CHƯƠNG MỘT: VÀI LỜI CỐT YẾU

4. Các môn đệ của Chúa Giêsu chỉ trích người phụ nữ đã đổ dầu thơm đắt tiền lên đầu Người. Họ nói: “Sao phí phạm như thế? Dầu thơm này có thể bán được một số tiền lớn, để có thể bố thí cho người nghèo.” Nhưng Chúa Giêsu trả lời họ: “Người nghèo thì các ngươi luôn có bên mình, còn Ta thì các ngươi không có mãi đâu” (Mt 26,8-9.11). Người phụ nữ ấy đã nhìn thấy nơi Chúa Giêsu hình ảnh Đấng Mêsia khiêm nhường và đau khổ, Đấng mà bà có thể dành trọn tình yêu của mình. Việc xức dầu ấy chắc chắn đã mang lại an ủi biết bao cho chính cái đầu mà chỉ ít ngày nữa sẽ bị gai đâm! Đành rằng đó là một cử chỉ nhỏ bé, nhưng những ai đau khổ mới biết ngay cả một cử chỉ yêu thương nhỏ bé cũng có thể lớn lao và mang lại sự xoa dịu biết bao. Chúa Giêsu hiểu điều này và nói với các môn đệ rằng cử chỉ của người phụ nữ ấy sẽ được ghi nhớ mãi: “Bất cứ nơi nào trong khắp thiên hạ Tin Mừng này được loan báo, thì người ta cũng sẽ kể lại việc bà vừa làm mà nhớ tới bà” (Mt 26,13). Tính đơn sơ trong cử chỉ của người phụ nữ ấy nói lên rất nhiều điều. Không một dấu hiệu cảm thương nào, dù nhỏ nhất, sẽ bị lãng quên, nhất là khi nó được thể hiện với những người đang đau khổ, cô đơn hay quẫn bách, như Chúa Giêsu vào lúc ấy.

5. Tình yêu đối với Chúa, vì thế, cũng chính là tình yêu đối với người nghèo. Chính Chúa Giêsu, Đấng nói với chúng ta: “Người nghèo thì anh em luôn có bên mình” (Mt 26,11), cũng hứa với các môn đệ: “Thầy ở cùng anh em luôn mãi” (Mt 28,20). Chúng ta cũng nhớ đến lời Người nói: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Đây không chỉ là lòng từ tâm thuần túy có tính nhân loại, mà là một mặc khải: việc tiếp xúc với những người thấp hèn và bất lực là một cách cơ bản để gặp gỡ vị Chúa của lịch sử. Trong người nghèo, Người vẫn tiếp tục nói với chúng ta.

Thánh Phanxicô

6. Khi giải thích về việc chọn danh hiệu của mình, Đức Giáo hoàng Phanxicô kể lại rằng sau khi ngài được bầu chọn, một Hồng y bạn của ngài đã ôm hôn ngài và nói: “Đừng quên người nghèo!” [4] Đó cũng chính là yêu cầu mà các vị lãnh đạo Giáo hội đã đặt ra cho thánh Phaolô khi ngài lên Giêrusalem để xác nhận sứ mạng của mình (x. Gl 2,1-10). Nhiều năm sau, vị Tông đồ vẫn có thể khẳng định rằng đó “thực sự là điều tôi đã hăng hái làm” (Gl 2,10). Chăm sóc người nghèo cũng là một mối quan tâm lớn của thánh Phanxicô Assisi: trong con người của một người phong cùi, chính Chúa Kitô đã ôm lấy Phanxicô và thay đổi cuộc đời ngài. Ngay cả ngày nay, thánh Phanxicô, Người Nghèo thành Assisi, vẫn tiếp tục truyền cảm hứng cho chúng ta bằng gương mẫu nổi bật của ngài.

7. Cách đây tám thế kỷ, thánh Phanxicô đã khơi dậy một cuộc canh tân theo Tin Mừng nơi các Kitô hữu và xã hội thời bấy giờ. Vốn giàu có và tự tin, chàng trai trẻ Phanxicô đã bị sốc và đã được hoán cải nhờ tiếp xúc trực tiếp với người nghèo và những người bị xã hội ruồng bỏ. Câu chuyện cuộc đời ngài vẫn tiếp tục thu hút tâm trí của các tín hữu, cả đối với nhiều người không tin. Nó đã “thay đổi lịch sử”.[5] Công đồng Vatican II có một bước tiến xa hơn trên nẻo đường này, như thánh Phaolô VI đã chỉ ra khi nói rằng “dụ ngôn cổ xưa về người Samari đã trở thành mẫu thức cho linh đạo của Công đồng”.[6] Tôi xác tín rằng việc ưu tiên lựa chọn người nghèo là một nguồn mạch canh tân phi thường cả cho Giáo hội lẫn xã hội, chỉ cần chúng ta giải thoát được chính mình khỏi tính qui ngã và mở tai ra trước tiếng kêu của họ.

Tiếng kêu của người nghèo

8. Đoạn Kinh Thánh trong đó Thiên Chúa mặc khải chính Ngài cho Môsê trong bụi gai đang bốc cháy có thể là điểm khởi đầu thường xuyên cho nỗ lực này. Ở đó, Thiên Chúa nói: “Ta đã thấy cảnh khốn khổ của dân Ta ở Ai cập; Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Thật vậy, Ta biết những đau khổ của chúng, và Ta đã xuống giải thoát chúng… Vậy hãy đi, Ta sẽ sai ngươi” (Xh 3,7-8.10). [7] Như vậy, Thiên Chúa cho thấy Ngài quan tâm đến nhu cầu của người nghèo: “Khi con cái Israel kêu lên Đức Chúa, Ngài đã cho xuất hiện một vị cứu tinh cho họ” (Tl 3,15). Khi lắng nghe tiếng kêu của người nghèo, chúng ta được mời gọi đi vào trái tim của Thiên Chúa, Đấng luôn quan tâm đến các nhu cầu của con cái Ngài, đặc biệt là những người túng quẫn nhất. Nếu chúng ta thản nhiên trước tiếng kêu đó, người nghèo sẽ kêu lên Chúa chống lại chúng ta, ta sẽ mắc tội (x. Đnl 15,9) và quay lưng lại với chính trái tim của Thiên Chúa.

9. Hoàn cảnh của người nghèo là một tiếng kêu mà trong suốt lịch sử nhân loại không ngừng thách thức cuộc sống, xã hội, các hệ thống chính trị và kinh tế của chúng ta, và nhất là thách thức Giáo hội. Trên những khuôn mặt đầy thương tích của người nghèo, chúng ta thấy nỗi khổ của những người vô tội, và do đó ta thấy nỗi đau khổ của chính Chúa Kitô. Đồng thời, có lẽ đúng hơn chúng ta nên nói về nhiều khuôn mặt của người nghèo và của tình trạng nghèo, vì đây là một hiện tượng đa diện. Quả thật, có nhiều hình thức nghèo: cái nghèo của những người thiếu phương tiện vật chất để sống còn, cái nghèo của những người bị gạt ra ngoài lề xã hội và thiếu phương tiện để lên tiếng cho phẩm giá và cho những khả năng của mình, cái nghèo đạo đức và tâm linh, cái nghèo văn hóa, cái nghèo của những người thấy mình trong tình trạng yếu đuối hoặc mong manh về mặt cá nhân hay xã hội, cái nghèo của những người không có quyền, không có chỗ, không có tự do.

10. Theo nghĩa đó, có thể nói rằng sự dấn thân cho người nghèo và cho việc xóa bỏ các nguyên nhân có tính cơ cấu và xã hội của tình trạng nghèo đã trở nên quan trọng trong các thập niên gần đây, nhưng vẫn chưa đủ. Đó cũng vì xã hội của chúng ta thường ưu tiên các tiêu chí định hướng cuộc sống và chính trị vốn in nhiều dấu bất bình đẳng. Kết quả là, những dạng nghèo cũ mà chúng ta đã nhận thức được và đang cố gắng chiến đấu lại được bổ sung bởi những dạng nghèo mới, đôi khi tinh vi và nguy hiểm hơn. Từ góc nhìn này, thật đáng hoan nghênh Liên Hiệp Quốc đã nêu việc xóa nghèo như một trong những Mục Tiêu Thiên Niên Kỷ của mình.

11. Sự dấn thân cụ thể cho người nghèo cũng phải gắn với một sự thay đổi về tâm thức vốn có thể tác động đến bình diện văn hóa. Thật vậy, ảo tưởng về hạnh phúc hiểu như một cuộc sống sung túc đã đẩy nhiều người đến một quan điểm sống tập trung vào việc tích lũy của cải và thành đạt xã hội bằng mọi giá, ngay cả bằng cách gây tổn hại đến người khác và bằng cách lợi dụng các lý tưởng xã hội có tính bất công và các hệ thống chính trị-kinh tế thiên vị kẻ mạnh. Do đó, trong một thế giới mà người nghèo ngày càng thêm đông, thì nghịch lý thay, chúng ta lại chứng kiến ​​sự phát triển của một tầng lớp tinh hoa giàu có, sống trong bong bóng tiện nghi xa xỉ, gần như ở một thế giới khác so với người dân thường. Điều này có nghĩa là vẫn tồn tại một thứ văn hóa – thường ngụy trang khéo léo – loại bỏ người khác mà thậm chí không hề ý thức, và thờ ơ chấp nhận việc hàng triệu người chết đói hoặc sống trong những điều kiện không xứng hợp với con người. Cách đây ít năm, bức ảnh thi thể một đứa trẻ nằm trên bãi biển Địa Trung Hải đã gây ra một làn sóng phẫn nộ; nhưng thật đáng tiếc, ngoài một số phản ứng tức thời, những sự kiện tương tự như thế đang ngày càng trở nên chẳng liên quan và được xem là những tin tức không quan trọng.

12. Chúng ta không được mất cảnh giác về vấn đề nghèo đói. Chúng ta phải đặc biệt quan tâm đến những hoàn cảnh nghiêm trọng mà nhiều người đang phải đối mặt do thiếu lương thực và nước uống. Cả ở các nước giàu, con số người nghèo tăng lên cũng là một mối lo ngại không kém. Ở Châu Âu, ngày càng nhiều gia đình không đủ tiền để sống đắp đổi. Nhìn chung, chúng ta đang chứng kiến ​​sự gia tăng của nhiều loại nghèo túng khác nhau, không còn là một thực tế đơn lẻ, đồng nhất, mà giờ đây bao gồm nhiều dạng bần cùng về kinh tế và xã hội, phản ánh tình trạng bất bình đẳng lan tràn ngay cả trong những bối cảnh phần lớn là sung túc. Chúng ta đừng quên rằng “những người phụ nữ nghèo ‘gấp hai lần’ là những người phải chịu đựng tình trạng bị loại trừ, bị ngược đãi và bạo hành, vì họ thường ít có khả năng bảo vệ quyền lợi của mình. Dù vậy, chúng ta thường xuyên chứng kiến ​​trong số họ những tấm gương anh hùng hàng ngày trong việc bảo vệ và che chở cho các gia đình dễ bị tổn thương của họ.”[8] Mặc dù những thay đổi đáng kể đang diễn ra ở một số quốc gia, nhưng “việc tổ chức các xã hội trên toàn thế giới vẫn còn chưa phản ánh thật rõ rằng phụ nữ có cùng phẩm giá và quyền lợi như nam giới. Chúng ta nói một đằng, nhưng các quyết định của chúng ta và thực tế lại đi một nẻo,”[9] đặc biệt khi xét đến con số phụ nữ thực tế đang trong hoàn cảnh khốn quẫn.

Những định kiến ​​có tính ý thức hệ

13. Nhìn xa hơn các dữ liệu – là cái đôi khi được “diễn giải” để thuyết phục chúng ta rằng tình trạng của người nghèo không quá nghiêm trọng – thì toàn cảnh thực tế lại rất rõ ràng: “Một số quy luật kinh tế đã chứng tỏ có hiệu quả đối với tăng trưởng, nhưng không hiệu quả đối với việc phát triển con người toàn diện. Của cải đã tăng lên, nhưng đi kèm với bất bình đẳng, dẫn đến ‘các dạng nghèo mới đang xuất hiện’. Tuyên bố rằng thế giới hiện đại đã giảm nghèo được đưa ra bằng cách đo lường cái nghèo bằng những tiêu chí từ quá khứ vốn không tương ứng với các thực tế ngày nay. Ví dụ, đã có thời mà việc thiếu tiếp cận năng lượng điện không được coi là dấu hiệu của tình trạng nghèo, cũng không phải là nguồn gốc của khó khăn. Cái nghèo phải luôn được hiểu và đánh giá trong bối cảnh các cơ hội thực tế có được trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể.” [10] Tuy nhiên, nhìn xa hơn những tình huống và bối cảnh cụ thể, một văn kiện năm 1984 của Cộng đồng Châu Âu đã tuyên bố rằng “‘người nghèo’ được hiểu là những cá nhân, gia đình và nhóm người mà nguồn lực của họ (về vật chất, văn hóa và xã hội) hạn chế đến mức loại trừ họ khỏi lối sống tối thiểu được chấp nhận ở các Quốc gia Thành viên nơi họ sinh sống.”[11] Thế nhưng nếu chúng ta thừa nhận rằng mọi con người đều có cùng phẩm giá, bất kể họ sinh ra ở đâu, thì ta không được bỏ qua những khác biệt to lớn tồn tại giữa các quốc gia và khu vực.

14. Người nghèo có đó không phải là ngẫu nhiên hay do định mệnh mù quáng và tàn nhẫn. Đối với phần đông trong họ, cái nghèo cũng không phải do họ lựa chọn. Thế nhưng vẫn có những kẻ dám tuyên bố như thế, qua đó cho thấy sự mù quáng và tàn nhẫn của mình. Tất nhiên, cũng có những người nghèo do không muốn làm việc, có lẽ vì tổ tiên của họ là những người đã làm việc cả đời và đã chết trong nghèo túng. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều người khác – cả nam lẫn nữ – làm việc từ sáng đến tối, có lẽ chỉ nhặt nhạnh những thứ vụn vặt, mặc dù họ biết rằng công việc vất vả của mình chỉ giúp mình sống qua ngày, chứ không thực sự cải thiện được cuộc sống. Cũng không thể nói rằng hầu hết người nghèo là do họ không “xứng đáng” được hưởng những điều khác, như một quan điểm sai lầm về trọng dụng nhân tài, trong đó chỉ người thành đạt được coi là “xứng đáng”.

15. Trong nhiều trường hợp, cả các Kitô hữu cũng sa vào những thái độ bị khuôn đúc bởi các ý thức hệ thế tục hoặc các cách tiếp cận chính trị và kinh tế, dẫn đến những khái quát hóa thô thiển và những kết luận sai lầm. Việc một số người bác bỏ hoặc chế giễu các công việc từ thiện, như thể chúng là nỗi ám ảnh của một số người chứ không phải là trái tim cháy bỏng của sứ mạng Giáo hội, khiến tôi tin rằng cần phải quay lại và đọc lại Phúc Âm, kẻo chúng ta có nguy cơ thay thế Phúc Âm bằng sự khôn ngoan của thế gian này. Không được quên người nghèo, nếu chúng ta muốn ở lại trong dòng chảy lớn của đời sống Giáo hội, vốn bắt nguồn từ Phúc Âm và sinh hoa kết trái mọi thời và mọi nơi.

CHƯƠNG HAI: THIÊN CHÚA CHỌN NGƯỜI NGHÈO

Sự lựa chọn người nghèo

16. Thiên Chúa là tình yêu thương xót, và kế hoạch yêu thương của Ngài, được mở ra và hoàn thành trong lịch sử, trên hết là việc Ngài hạ giáng đến giữa chúng ta để giải thoát ta khỏi ách nô lệ, khỏi sự sợ hãi, tội lỗi và quyền lực sự chết. Hướng nhìn thân phận con người của họ bằng ánh nhìn thương xót và trái tim tràn đầy yêu thương, Ngài đã đoái đến các thụ tạo của Ngài và do đó đã quan tâm đến sự nghèo khó của họ. Chính để chia sẻ những giới hạn và sự mong manh của bản tính con người chúng ta, Ngài đã trở nên nghèo khó và được sinh ra trong xác thịt như chúng ta. Chúng ta nhận biết Ngài trong sự nhỏ bé của một đứa trẻ nằm trong máng cỏ và trong sự sỉ nhục tột cùng của thập giá, nơi Ngài chia sẻ sự nghèo khó tận cùng của chúng ta, tức là cái chết. Vì vậy, thật dễ hiểu tại sao chúng ta cũng có thể nói trong ý nghĩa thần học về một sự lựa chọn ưu tiên của Thiên Chúa đối với người nghèo, một thành ngữ đã xuất hiện trong bối cảnh châu Mỹ La tinh và nhất là ở Hội nghị Puebla, nhưng đã được hội nhập chặt chẽ vào các giáo huấn sau này của Giáo hội.[12] “Sự ưu tiên” này không bao giờ ám chỉ sự loại trừ hay kỳ thị đối với các nhóm khác, điều không thể xảy ra đối với Thiên Chúa. Sự ưu tiên ấy nhằm nhấn mạnh hành động của Thiên Chúa, được thúc đẩy bởi lòng trắc ẩn đối với tình trạng nghèo nàn và yếu đuối của toàn thể nhân loại. Muốn khai mở một vương quốc của công lý, huynh đệ và liên đới, Thiên Chúa dành một chỗ đặc biệt trong trái tim Ngài cho những kẻ bị kỳ thị và áp bức, và Ngài yêu cầu chúng ta, Giáo hội của Ngài, đưa ra một lựa chọn dứt khoát và triệt để ủng hộ những người yếu đuối nhất.

17. Chính trong nhãn giới này, chúng ta có thể nhận hiểu nhiều trang Cựu Ước trong đó Thiên Chúa được trình bày như người bạn và Đấng giải phóng người nghèo, Đấng lắng nghe tiếng kêu của người nghèo và can thiệp để giải thoát họ (x. Tv 34,7). Thiên Chúa, nơi nương náu của người nghèo, tố cáo qua miệng các ngôn sứ – ta đặc biệt nhớ đến Amos và Isaia – về những bất công đối với những người yếu đuối nhất, và khuyến dụ Israel đổi mới việc thờ phượng từ bên trong, bởi vì người ta không thể cầu nguyện và dâng lễ tế trong khi đang áp bức những người yếu đuối và nghèo khổ nhất. Ngay từ đầu Kinh Thánh, tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện rõ nét qua việc Ngài bảo vệ những kẻ yếu đuối và nghèo khổ, đến mức có thể nói rằng Ngài dành một sự ưu ái đặc biệt cho họ. “Trái tim Thiên Chúa có một chỗ đặc biệt cho người nghèo… Toàn thể lịch sử cứu chuộc chúng ta được đánh dấu bằng sự hiện diện của người nghèo.”[13]

Chúa Giêsu, Đấng Mêsia nghèo

18. Lịch sử Cựu Ước về tình yêu ưu tiên của Thiên Chúa dành cho người nghèo và việc Ngài sẵn lòng lắng nghe tiếng kêu của họ – mà tôi vừa đề cập ngắn gọn – đã nên trọn nơi Chúa Giêsu thành Nadarét.[14] Nơi cuộc Nhập thể, Người “đã hoàn toàn trút bỏ chính mình, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân” (Pl 2,7), và trong hình dạng đó, Người đã mang ơn cứu độ đến cho chúng ta. Sự nghèo khó của Người là một sự nghèo khó triệt để, bắt nguồn từ sứ mạng mặc khải trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta (x. Ga 1,18; 1Ga 4,9). Như thánh Phaolô diễn tả theo cách ngắn gọn nhưng đầy ấn tượng của ngài: “Anh em biết rõ ân sủng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để nhờ sự nghèo khó của Người, anh em trở nên giàu có” (2Cr 8,9).

19. Phúc Âm cho chúng ta thấy rằng sự nghèo khó đã in dấu trong mọi khía cạnh của cuộc đời Chúa Giêsu. Ngay từ khi chào đời, Người đã nếm trải kinh nghiệm cay đắng của việc bị khước từ. Thánh sử Luca kể lại việc Giuse và Maria, sắp sinh con, đã đến Bêlem, và nói thêm một cách chua xót rằng “không có chỗ cho họ trong quán trọ” (Lc 2,7). Chúa Giêsu sinh ra trong khung cảnh nghèo khó và được đặt nằm trong máng cỏ; rồi sau đó, để cứu Người khỏi bị giết, hai ông bà đã trốn sang Ai cập (x. Mt 2,13-15). Vào lúc bắt đầu sứ vụ công khai, sau khi rao giảng trong hội đường Nadarét rằng năm hồng ân mang lại niềm vui cho người nghèo đã được ứng nghiệm nơi Người, Chúa Giêsu bị lôi ra khỏi thành (x. Lc 4,14-30). Người đã chết như một kẻ bị ruồng bỏ, bị dẫn ra khỏi Giêrusalem để chịu đóng đinh (x. Mc 15,22). Quả thật, đó là cách diễn tả rõ nhất về sự nghèo khó của Chúa Giêsu: Người đã kinh nghiệm cùng một thân phận bị loại trừ mà người nghèo, những người bị xã hội ruồng bỏ phải chịu. Chúa Giêsu là một biểu lộ của privilegium pauperum (sự ưu tiên người nghèo). Người tự giới thiệu mình với thế giới không chỉ như một Đấng Mêsia nghèo khó, mà còn là Đấng Mêsia của người nghèo và cho người nghèo.

20. Có một vài manh mối về vị thế xã hội của Chúa Giêsu. Trước hết, Người làm nghề thợ thủ công hay thợ mộc, téktōn (x. Mc 6,3). Đây là những người kiếm sống bằng lao động chân tay. Không có đất đai, họ bị coi là thấp kém hơn nông dân. Khi Hài nhi Giêsu được Giuse và Maria dâng vào Đền thờ, cha mẹ Người đã dâng một cặp chim gáy hoặc bồ câu (x. Lc 2,22-24), theo quy định của sách Lêvi (x. 12,8) thì đó là lễ vật của người nghèo. Một đoạn khá quan trọng trong Phúc Âm kể cho chúng ta nghe về việc Chúa Giêsu, cùng với các môn đệ của mình, đã nhặt bông lúa để ăn khi đi qua cánh đồng (x. Mc 2,23-28). Chỉ những người nghèo mới được phép mót lúa trên đồng. Hơn nữa, Chúa Giêsu nói về chính mình: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8,20; Lc 9,58). Thực vậy, Người là một vị thầy lưu động, sự nghèo khó và bấp bênh của Người là dấu chỉ mối gắn kết với Chúa Cha. Chúng cũng là những điều kiện cho những ai muốn theo Người trên con đường làm môn đệ. Bằng cách này, việc từ bỏ của cải, tiền bạc và sự an toàn trần tục trở thành dấu chỉ hữu hình của việc phó thác chính mình cho Thiên Chúa và cho sự quan phòng của Ngài.

21. Vào đầu sứ vụ công khai của Người, Chúa Giêsu đã xuất hiện trong hội đường Nadarét, đọc sách ngôn sứ Isaia và áp dụng lời ngôn sứ cho chính mình: “Thần Khí của Đức Chúa ngự trên tôi, vì Ngài đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó” (Lc 4,18; x. Is 61,1). Như vậy, Người tỏ mình ra là Đấng, ngay tại đây và bây giờ của lịch sử, đến để mang lại sự gần gũi yêu thương của Thiên Chúa, đó trước hết là công cuộc giải phóng cho những ai bị giam cầm bởi sự dữ, cho những người yếu đuối và nghèo khó. Những dấu chỉ đi kèm với lời rao giảng của Chúa Giêsu là biểu hiện của tình yêu và lòng trắc ẩn mà Thiên Chúa dành cho những người ốm đau, người nghèo và tội nhân, những người mà vì hoàn cảnh của họ đã bị xã hội và thậm chí cả những người có đức tin gạt ra ngoài lề. Người mở mắt người mù, chữa lành người phung cùi, làm cho kẻ chết sống lại và loan báo Tin Mừng cho người nghèo: Thiên Chúa ở gần, Thiên Chúa yêu thương quí vị (x. Lc 7,22). Điều này giải thích tại sao Người tuyên bố: “Phúc cho anh em là những người nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6,20). Thiên Chúa tỏ ra ưu ái người nghèo: những lời hy vọng và giải phóng của Chúa trước hết được gửi đến họ. Vì vậy, ngay cả trong cảnh nghèo khó hay yếu đuối của mình, đừng ai nghĩ mình bị bỏ rơi. Và nếu Giáo hội muốn trở thành Giáo hội của Chúa Kitô, thì Giáo hội phải là một Giáo hội của các Mối Phúc, một Giáo hội dành chỗ cho những người bé mọn và nên nghèo với người nghèo, một nơi mà người nghèo có chỗ ưu tiên (x. Gc 2,2-4).

22. Vào thời đó, những người nghèo túng và bệnh tật, thiếu thốn những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, thường xuyên bị buộc phải ăn xin. Do đó, họ phải chịu thêm gánh nặng của sự xấu hổ xã hội, bởi niềm tin rằng bệnh tật và nghèo đói cách nào đó có liên quan đến tội lỗi cá nhân. Chúa Giêsu đã kiên quyết phản đối não trạng này bằng cách khẳng định rằng Thiên Chúa “cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,45). Thật vậy, Người đã hoàn toàn lật đổ quan niệm đó, như chúng ta thấy phần kết của dụ ngôn người phú hộ và Ladarô: “Hỡi con, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận được phần phước của con rồi, còn Ladarô thì chịu toàn bất hạnh. Giờ đây, anh ấy được an ủi ở đây, còn con thì phải chịu đau đớn” (Lc 16,25).

23. Vậy thì rõ ràng là “đức tin của chúng ta vào Chúa Kitô, Đấng đã trở nên nghèo khó và luôn gần gũi với người nghèo và những người bị ruồng bỏ, là nền tảng cho mối quan tâm của chúng ta đối với sự phát triển toàn diện của những thành viên bị lãng quên nhất trong xã hội.” [15] Tôi thường tự hỏi, mặc dù giáo huấn của Kinh Thánh rất rõ ràng về người nghèo, tại sao nhiều người vẫn tiếp tục nghĩ rằng họ có thể yên tâm bỏ qua người nghèo. Tuy nhiên, ở đây, chúng ta hãy tiếp tục suy ngẫm về những gì Kinh Thánh nói với chúng ta về mối quan hệ của chúng ta với người nghèo, cũng như về chỗ đứng thiết yếu của họ trong dân Chúa.

Lòng thương xót đối với người nghèo trong Kinh Thánh

24. Thánh Tông đồ Gioan viết: “Ai không yêu thương anh chị em mình mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20). Tương tự, khi trả lời câu hỏi của người thông luật, Chúa Giêsu đã trích dẫn hai điều răn cổ xưa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi” (Đnl 6,5), và “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Lv 19,18), liên kết chúng thành một điều răn duy nhất. Thánh sử Máccô thuật lại câu trả lời của Chúa Giêsu như sau: “Điều răn thứ nhất là: ‘Nghe đây, hỡi Israel: Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: ‘Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.’ Không có điều răn nào khác lớn hơn hai điều răn đó” (12,29-31).

25. Đoạn trích từ sách Lêvi dạy về tình yêu thương đối với người thân cận, trong khi các bản văn khác kêu gọi sự tôn trọng – nếu không muốn nói là yêu thương – ngay cả đối với kẻ thù: “Khi ngươi gặp bò hay lừa của kẻ thù đi lạc, ngươi phải dẫn nó về. Khi ngươi thấy lừa của kẻ ghét ngươi bị ngã vì chở nặng mà ngươi không muốn cứu, thì ngươi phải giúp giải cứu nó” (Xh 23,4-5). Ở đây, giá trị nội tại của sự tôn trọng người khác được nêu rõ: bất kỳ ai đang cần giúp đỡ, ngay cả kẻ thù, luôn xứng đáng được chúng ta giúp đỡ.

26. Giáo huấn của Chúa Giêsu về tính tối thượng của tình yêu đối với Thiên Chúa được bổ sung rõ ràng bằng sự nhấn mạnh của Người rằng ta không thể yêu Thiên Chúa mà không mở rộng tình yêu thương của mình ra cho người nghèo. Tình yêu đối với tha nhân là bằng chứng hữu hình cho thấy sự chân thực của tình yêu chúng ta dành cho Thiên Chúa, như thánh Tông đồ Gioan chứng thực: “Chưa ai thấy Thiên Chúa bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Ngài nơi chúng ta mới nên hoàn hảo… Thiên Chúa là tình yêu, ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1Ga 4,12-16). Hai tình yêu này tuy khác biệt nhưng không thể tách rời. Ngay cả trong những trường hợp không có sự quy chiếu rõ ràng đến Thiên Chúa, thì chính Chúa Giêsu dạy rằng mọi hành động yêu thương dành cho tha nhân, theo một cách nào đó, đều phản ánh đức ái đối thần: “Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, đó là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).

27. Vì lý do này, các việc làm của lòng thương xót được khuyến khích như một dấu chỉ cho thấy sự thờ phượng đích thực, sự thờ phượng mà trong khi vừa ca ngợi Thiên Chúa, thì cũng mở lòng chúng ta ra cho sự biến đổi mà Chúa Thánh Thần có thể thực hiện trong chúng ta, để tất cả chúng ta có thể trở thành hình ảnh của Chúa Kitô và lòng thương xót của Người đối với những kẻ yếu đuối nhất. Theo nghĩa này, mối tương quan của chúng ta với Chúa, được diễn tả trong phụng tự, cũng nhằm mục đích giải phóng chúng ta khỏi nguy cơ sống các mối tương quan của mình theo lôgic tính toán và tư lợi. Thay vào đó, chúng ta mở ra cho tính vô vụ lợi giữa những người yêu thương nhau, và do đó chia sẻ mọi thứ làm của chung. Về khía cạnh này, Chúa Giêsu khuyên: “Khi anh em đãi tiệc, đừng mời bạn bè, anh em, bà con hay láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại anh em, và anh em được đáp lễ. Nhưng khi anh em đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù, và anh em sẽ được phúc, vì họ không có gì đáp lễ cho anh em” (Lc 14,12-14).

28. Lời Chúa thúc đẩy việc bày tỏ lòng thương xót đối với người nghèo đạt đến đỉnh điểm trong dụ ngôn vĩ đại về cuộc phán xét cuối cùng (x. Mt 25,31-46), có thể là một minh họa sống động về Mối Phúc thương xót. Trong dụ ngôn đó, Chúa trao cho chúng ta chìa khóa để đạt sự viên mãn trong cuộc sống; thật vậy, “nếu chúng ta tìm kiếm sự thánh thiện đẹp lòng Thiên Chúa, thì bản văn này cung cấp cho chúng ta một tiêu chuẩn rõ ràng theo đó chúng ta sẽ được phán xét.” [16] Những lời rõ ràng và mạnh mẽ của Phúc Âm phải được đưa vào thực hành “mà không có bất kỳ sự giả định nào có thể làm giảm thiểu sức mạnh của chúng. Chúa chúng ta đã nói rất rõ rằng sự thánh thiện không thể được hiểu hay sống tách biệt khỏi những đòi hỏi này.” [17]

29. Trong cộng đoàn Kitô hữu sơ khai, các việc bác ái được làm không phải dựa trên các nghiên cứu sơ bộ hay kế hoạch lập trước, mà trực tiếp noi theo gương Chúa Giêsu như được trình bày trong Phúc Âm. Thư của thánh Giacôbê nói kỹ về vấn đề những mối liên hệ giữa người giàu và người nghèo, và đặt ra cho các tín hữu hai câu hỏi để kiểm tra tính chân thực của đức tin: “Hỡi anh chị em, nếu nói rằng mình có đức tin mà không hành động, thì nào có ích gì? Đức tin có thể cứu anh chị em được ư? Nếu có người anh em hay chị em nào trần truồng và thiếu của ăn hằng ngày, mà có ai nói với họ: ‘Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no,’ mà lại không cung cấp cho những nhu cầu thể chất của họ, thì nào có ích gì? Vậy, đức tin, nếu không có hành động, thì quả là đức tin chết” (2,14-17).

30. Thánh Giacôbê nói tiếp: “Vàng bạc của anh em đã rỉ sét, và rỉ sét ấy sẽ là bằng chứng buộc tội anh em, và nó sẽ ăn mòn xác thịt anh em như lửa. Anh em đã tích trữ kho tàng cho những ngày sau hết. Này! Tiền công của những người thợ gặt ruộng của anh em, mà anh em đã gian lận giữ lại, đang kêu oan, và tiếng kêu của những người gặt lúa đã thấu đến tai Chúa các đạo binh. Anh em đã sống xa hoa và hưởng lạc trên thế gian này, anh em đã làm cho lòng mình no nê trong ngày sát hại” (5,3-5). Đây là những lời mạnh mẽ, ngay cả khi chúng ta không muốn nghe! Một lời thúc bách tương tự có thể được tìm thấy trong Thư thứ nhất của thánh Gioan: “Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu mà lại không giúp đỡ thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được?” (3,17).

31. Sứ điệp của Lời Chúa “rất rõ ràng và trực tiếp, rất giản dị và hùng hồn, đến nỗi không một chú giải nào của Giáo hội có quyền tương đối hóa nó. Việc suy tư của Giáo hội về những bản văn này không được làm lu mờ hay làm suy yếu sức mạnh của chúng, nhưng phải thúc giục chúng ta đón nhận những giáo huấn của chúng với lòng can đảm và nhiệt thành. Tại sao lại làm phức tạp một điều đơn giản như vậy? Sự tồn tại của các công cụ giúp ý niệm là để tăng cường sự tiếp xúc với các thực tại mà chúng muốn giải thích, chứ không phải để tách ta ra khỏi chúng.” [18]

32. Thật vậy, chúng ta tìm thấy một ví dụ rõ ràng trong Giáo hội về việc chia sẻ của cải và chăm sóc người nghèo trong đời sống hằng ngày của cộng đoàn các Kitô hữu thuở ban đầu. Chúng ta có thể nhớ lại cách riêng cách thức mà vấn đề phân phát trợ cấp hàng ngày cho các bà góa đã được giải quyết (x. Cv 6,1-6). Đây không phải là một chuyện dễ dàng, một phần vì một số bà góa này, những người đến từ các xứ sở khác, đôi khi bị bỏ rơi vì họ là người ngoại bang. Thật vậy, sự việc được kể lại trong sách Công vụ Tông đồ nêu bật một sự bất mãn nào đó từ phía những người Hy lạp, tức những người Do thái thuộc văn hóa Hy lạp. Các Tông đồ không đáp lại bằng những lời lẽ trừu tượng, nhưng bằng cách đặt lòng bác ái đối với tất cả mọi người vào trung tâm, tổ chức lại việc hỗ trợ các bà góa bằng việc yêu cầu cộng đoàn tìm kiếm những người khôn ngoan và đáng kính để có thể giao phó cho họ việc phân phát lương thực, trong khi các Tông đồ lo việc rao giảng Lời Chúa.

33. Khi Phaolô đi Giêrusalem để tham vấn ​​các Tông đồ nhằm phòng tránh trường hợp cách nào đó mình “đang hoặc đã ngược xuôi vô ích” (Gl 2,2), Phaolô được yêu cầu không được quên người nghèo (x. Gl 2,10). Vì vậy, ngài đã tổ chức nhiều cuộc quyên góp khác nhau để giúp đỡ các cộng đoàn nghèo. Trong số những lý do khiến Phaolô làm điều này, thì lý do nổi bật là: “Thiên Chúa yêu thương người dâng hiến một cách vui vẻ” (2Cr 9,7). Lời Chúa nhắc nhở những ai trong chúng ta thường không có khuynh hướng làm các việc thiện và vô vụ lợi, rằng lòng quảng đại đối với người nghèo thực sự mang lại lợi ích cho những người thực hiện nó: Thiên Chúa dành cho họ một tình yêu đặc biệt. Thật vậy, Kinh Thánh đầy những lời hứa đối với những ai rộng lượng chia sẻ: “Ai thương xót người nghèo là cho Chúa vay mượn, và sẽ được Chúa trả lại đầy đủ” (Cn 19,17). “Hãy cho đi, thì sẽ được cho lại… vì anh em đong bằng đấu nào, thì sẽ được đong lại bằng đấu ấy” (Lc 6,38). “Bấy giờ ánh sáng của anh em sẽ bừng lên như rạng đông, và vết thương của anh em sẽ mau lành” (Is 58,8). Các tín hữu đầu tiên không hề nghi ngờ điều này.

34. Đời sống của các cộng đoàn Giáo hội đầu tiên, được mô tả trong các trang Kinh Thánh và được truyền lại cho chúng ta như lời mặc khải của Thiên Chúa, đã được trao cho chúng ta như một gương mẫu để bắt chước, nhưng đó cũng là một chứng tá cho đức tin hoạt động qua đức ái, và là một nguồn cảm hứng bền bỉ cho các thế hệ mai sau. Qua bao thế kỷ, những trang sách ấy đã lay động trái tim các Kitô hữu để yêu thương và thực thi các việc bác ái, giống như những hạt giống sinh hoa trái, không ngừng đem lại mùa gặt bội thu.

CHƯƠNG BA: MỘT GIÁO HỘI CHO NGƯỜI NGHÈO

35. Ba ngày sau khi đắc cử, vị tiền nhiệm của tôi đã bày tỏ với các đại diện truyền thông niềm ao ước rằng sự quan tâm chăm sóc người nghèo sẽ được thể hiện rõ ràng hơn trong Giáo hội: “Tôi mong muốn biết bao một Giáo hội nghèo và vì người nghèo!” [19]

36. Mong muốn ấy phản ánh nhận thức rằng Giáo hội “nhận ra nơi những người nghèo và những người đau khổ hình ảnh của Đấng sáng lập nghèo khó và đau khổ của mình.” [20] Thật vậy, vì Giáo hội được kêu gọi tự đồng hóa với những người bé mọn nhất, nên tại cốt lõi của mình “Không thể có chỗ cho sự nghi ngờ hay những lời giải thích làm suy yếu một sứ điệp rõ ràng đến thế… Chúng ta phải tuyên bố, không vòng vo, rằng có một mối gắn kết không thể tách rời giữa đức tin của chúng ta và người nghèo.”[21] Về phương diện này, chúng ta có vô số chứng tá từ các môn đệ của Chúa Kitô trải dài ngót hai ngàn năm.[22]

Của cải đích thực của Giáo hội

37. Thánh Phaolô ghi nhận rằng trong số các tín hữu của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai, không có nhiều người “khôn ngoan theo xác thịt, không có nhiều người quyền thế, không có nhiều người quý tộc” (1Cr 1,26). Tuy nhiên, cho dù nghèo khó, các Kitô hữu đầu tiên đã ý thức rõ ràng về sự cần thiết phải chăm sóc những người túng thiếu nhất. Ngay từ buổi ban đầu của Kitô giáo, các Tông đồ đã đặt tay trên bảy người được chọn từ cộng đoàn. Ở một mức độ nào đó, các Tông đồ đã sáp nhập họ vào thừa tác vụ của mình, thiết lập họ để phục vụ (diakonía trong tiếng Hy lạp) những người nghèo nhất (x. Cv 6,1-5). Thật ý nghĩa việc môn đệ đầu tiên làm chứng cho đức tin của mình vào Chúa Kitô đến mức đổ máu mình ra là Têphanô, một người thuộc nhóm này. Nơi Têphanô, chứng tá chăm sóc người nghèo và chứng tá tuẫn đạo đã hợp nhất với nhau.

38. Gần hai thế kỷ sau, một phó tế khác, thánh Lôrensô, sẽ chứng tỏ lòng trung thành của mình với Chúa Giêsu Kitô theo cách tương tự qua việc kết hợp sự tuẫn đạo và sự phục vụ người nghèo. [23] Từ lời kể của thánh Ambrôsiô, chúng ta biết rằng Lôrensô, một phó tế ở Rôma trong thời Giáo hoàng Sixtô II, đã bị nhà cầm quyền Rôma buộc phải giao nộp tài sản của Giáo hội. “Ngày hôm sau, ngài mang theo những người nghèo. Khi được hỏi về nơi cất giữ tài sản như đã hứa, ngài chỉ vào những người nghèo và nói: ‘Đây là tài sản của Giáo hội’.”[24] Khi tường thuật sự kiện này, thánh Ambrôsiô hỏi: “Chúa Giêsu có kho tàng nào quý giá hơn những kho tàng mà qua đó Người thích giới thiệu chính Người?”[25] Và, ghi nhớ rằng các thừa tác viên của Giáo hội không bao giờ được bỏ bê việc chăm sóc người nghèo, càng không được tích lũy của cải vì lợi ích riêng, ngài nói: “Nhiệm vụ này phải được thi hành với đức tin chân thành và với sự tiên liệu khôn ngoan. Chắc chắn, nếu ai đó thu vén lợi ích cá nhân từ nhiệm vụ này, người ấy phạm tội; nhưng nếu người ấy phân phát số tiền thu được cho người nghèo hoặc chuộc một tù nhân, thì người ấy đã thực hiện một việc của lòng thương xót.”[26]

Các Giáo phụ và Người Nghèo

39. Ngay từ những thế kỷ đầu, các Giáo phụ đã nhận ra nơi người nghèo một con đường ưu tiên để đến với Thiên Chúa, một con đường đặc biệt để gặp gỡ Ngài. Lòng bác ái đối với những người túng thiếu không chỉ được xem là một nhân đức luân lý, mà còn là một diễn tả cụ thể của đức tin vào Ngôi Lời nhập thể. Cộng đoàn tín hữu, được nâng đỡ bởi sức mạnh của Chúa Thánh Thần, cắm rễ trong sự gần gũi với người nghèo, những người mà họ coi không chỉ là một “phần phụ”, nhưng là một phần thiết yếu trong thân thể sống động của Chúa Kitô. Chẳng hạn, khi đang trên đường chịu tuẫn đạo, thánh Inhaxiô thành Antiôkia đã khuyến dụ cộng đoàn Smyrna đừng xao lãng bổn phận làm việc bác ái đối với những người túng thiếu nhất, khuyên họ đừng hành xử như những kẻ chống lại Thiên Chúa. “Nhưng hãy nghĩ đến những người có quan điểm khác về ân sủng của Chúa Kitô, ân sủng đã đến với chúng ta, để thấy họ chống lại ý muốn của Thiên Chúa như thế nào. Họ không coi trọng tình yêu thương; không quan tâm đến các bà góa, các cô nhi, hay những người bị áp bức; không quan tâm đến những người nô lệ, hay những người tự do; những kẻ đói hay những kẻ khát.” [27] Giám mục Smyrna, Polycarp, đã tuyên bố rõ ràng rằng các thừa tác viên của Giáo hội cần phải chăm sóc người nghèo: “Và các trưởng lão hãy tỏ lòng thương xót và nhân từ với tất cả mọi người, đưa những người đi lạc trở về, thăm viếng tất cả các bệnh nhân, không bỏ bê các góa phụ, trẻ mồ côi, hay người nghèo, nhưng luôn ‘chu cấp những gì tốt lành trước mắt Thiên Chúa và con người’.” [28] Từ hai chứng nhân này, chúng ta thấy Giáo hội biểu lộ mình là người mẹ của người nghèo, là một nơi của sự tiếp đón và của công lý.

40. Về phần mình, thánh Justinô, người đã viết quyển Hộ giáo đầu tiên của mình để nói với Hoàng đế Adrian, với Nghị viện và dân chúng Rôma, đã giải thích rằng các Kitô hữu mang tất cả những gì có thể để chia sẻ cho những người túng thiếu vì họ coi những người ấy là anh chị em trong Chúa Kitô. Viết về cộng đoàn tụ họp cầu nguyện vào ngày đầu tuần, ngài nhấn mạnh rằng ở trung tâm của phụng vụ Kitô giáo, không thể tách rời việc thờ phượng Thiên Chúa khỏi việc quan tâm đến người nghèo. Do đó, tại một thời điểm trong buổi lễ, “những người khá giả và sẵn lòng đóng góp sẽ chia sẻ những gì được cho là phù hợp; và những gì quyên góp được sẽ trao cho vị chủ tọa, và vị này sẽ hỗ trợ các trẻ mồ côi, các quả phụ, và những người túng thiếu do bệnh tật hay do bất cứ lý do nào khác, cũng như hỗ trợ những người trong tình trạng nợ nần, và những khách ngoại kiều đang lưu trú giữa chúng ta, nói tóm lại là chăm sóc tất cả những ai túng thiếu.”[29] Điều này chứng tỏ rằng Giáo hội sơ khai không tách biệt đức tin khỏi hành động xã hội: đức tin không có chứng tá bằng hành động cụ thể thì được coi là đức tin chết, như thánh Giacôbê đã dạy chúng ta (x. 2,17).

Thánh Gioan Kim Khẩu

41. Trong số các Giáo phụ Đông phương, có lẽ nhà giảng thuyết hăng say nhất về công bằng xã hội là thánh Gioan Kim Khẩu, Tổng Giám mục Constantinople từ cuối thế kỷ 4 đến đầu thế kỷ 5. Trong các bài giảng của mình, ngài đã khuyến dụ các tín hữu nhận ra Chúa Kitô nơi những người thiếu thốn: “Anh chị em có muốn tôn vinh thân thể Chúa Kitô không? Đừng để thân thể ấy bị khinh miệt nơi các chi thể của nó, tức là nơi những người nghèo, những người không có quần áo để che thân. Đừng tôn vinh thân thể Chúa Kitô ở đây trong nhà thờ bằng vải lụa, trong khi ngoài kia anh chị em lại thờ ơ khi thân thể ấy chịu giá lạnh và trần truồng… [Thân thể Chúa Kitô trên bàn thờ] không cần các tấm áo choàng, chỉ cần những tâm hồn thuần khiết; trong khi thân thể ấy ngoài kia cần được chăm sóc nhiều. Vì vậy, chúng ta hãy học cách nghĩ và tôn vinh Chúa Kitô như Người mong muốn. Vì sự tôn vinh đẹp lòng nhất đối với người mà ta tôn kính, đó là làm điều người ấy mong muốn, chứ không phải điều do ta nghĩ ra… Bởi đó, anh chị em cũng vậy, hãy tôn vinh Người như Người đã truyền dạy, và cho phép người nghèo được hưởng dụng của cải của anh chị em. Thiên Chúa không cần những chiếc bình bằng vàng, mà cần những tấm lòng vàng.”[30] Thánh Gioan Kim Khẩu khẳng định rõ ràng rằng nếu các tín hữu không gặp được Chúa Kitô nơi những người nghèo đứng ngoài cửa, họ sẽ không thể thờ phượng Người ngay cả tại bàn thờ, ngài nói tiếp: “Chúa Kitô được lợi gì nếu bàn tế lễ chất đầy những bình vàng, trong khi chính Người chết đói nơi những người nghèo? Hãy cho người đói ăn trước, và chỉ sau đó mới trang hoàng bàn thờ bằng những gì còn lại.”[31] Do đó, ngài hiểu Bí tích Thánh Thể như một diễn tả có tính bí tích của bác ái và công lý vốn đi trước và gắn liền với nó. Chính bác ái và công lý ấy sẽ bảo tồn Bí tích Thánh Thể xuyên qua tình yêu và sự quan tâm đến người nghèo.

42. Do đó, bác ái không phải là điều tùy chọn mà là một đòi hỏi của sự thờ phượng đích thực. Thánh Gioan Kim Khẩu kịch liệt lên án sự giàu có quá mức gắn liền với sự thờ ơ đối với người nghèo. Sự quan tâm dành cho người nghèo, không phải là một yêu cầu duy chỉ có tính xã hội, mà là một điều kiện cho ơn cứu độ, điều này làm cho sự giàu có bất chính trở thành một sức nặng đáng lên án. “Trời rất lạnh và người nghèo kia nằm trong giẻ rách, đang hấp hối, lạnh cóng, run rẩy, với hình hài và quần áo đủ làm bạn phải xúc động. Thế nhưng bạn đi ngang qua với bộ mặt đỏ bừng say xỉn. Vậy làm sao bạn mong Chúa giải thoát mình khỏi bất hạnh?… Bạn thường trang điểm cho một xác chết vô cảm, chẳng còn danh dự gì nữa, với những bộ trang phục lấp lánh kim tuyến đủ kiểu. Thế nhưng bạn lại khinh thường con người đang đau đớn kia, con người ấy đang bị xé nát, bị hành hạ, bị dày vò bởi đói khát và giá lạnh.”[32] Ý thức sâu sắc này về công bằng xã hội dẫn thánh Gioan Kim Khẩu đến khẳng định rằng “không chia sẻ cho người nghèo là ăn cắp của họ, là lừa gạt tước đoạt sự sống của họ, bởi vì những gì chúng ta có là của họ.”[33]

Thánh Augustinô

43. Vị hướng dẫn thiêng liêng của Augustinô là thánh Ambrôsiô, người đã nhấn mạnh đòi hỏi đạo đức phải chia sẻ của cải vật chất: “Những gì bạn cho người nghèo không phải là tài sản của bạn, mà là của họ. Tại sao bạn chiếm đoạt cho mình những gì được trao ban để sử dụng chung?”[34] Đối với vị Giám mục Milan, bố thí là công lý được khôi phục, chứ không phải là một cử chỉ ban phát có tính kẻ cả. Trong lời giảng của ngài, lòng thương xót mang tính ngôn sứ: ngài tố cáo những cơ cấu tích trữ của cải và tái khẳng định sự hiệp thông xét như là ơn gọi của Giáo hội.

44. Được đào tạo trong truyền thống này, về phần mình, vị Giám mục thánh thiện của Hippo đã dạy về tình yêu thương ưu tiên dành cho người nghèo. Là một mục tử tỉnh táo và nhà thần học sâu sắc hiếm có, ngài nhận ra rằng sự hiệp thông đích thực của Giáo hội cũng biểu lộ trong sự hiệp thông về của cải. Trong cuốn Chú giải Thánh vịnh, ngài nhắc chúng ta nhớ rằng người Kitô hữu đích thực không xao lãng tình thương đối với những người túng quẫn nhất: “Quan sát anh chị em mình, bạn biết họ có túng thiếu hay không, nhưng nếu Chúa Kitô ngự trong bạn, thì bạn cũng hãy bác ái với người xa lạ.”[35] Do đó, việc chia sẻ của cải này bắt nguồn từ đức ái đối thần và có mục tiêu cuối cùng là tình yêu đối với Chúa Kitô. Đối với Augustinô, người nghèo không chỉ là những người cần được giúp đỡ, mà còn là sự hiện diện có tính bí tích của Chúa.

45. Vị Tiến sĩ của Ân sủng coi việc chăm sóc người nghèo là bằng chứng cụ thể cho sự chân thành của đức tin. Bất cứ ai nói rằng mình yêu Chúa mà không có lòng thương cảm đối với người túng thiếu thì đó là nói dối (x. 1Ga 4,20). Khi bình luận về cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với người thanh niên giàu có và về “kho tàng trên trời” dành cho những ai chia sẻ của cải cho người nghèo (x. Mt 19,21), thánh Augustinô đã hình dung Chúa nói: “Ta đã nhận được đất, Ta sẽ trao ban trời; Ta đã nhận được của cải chóng qua, Ta sẽ trao ban của cải đời đời; Ta đã nhận được bánh, Ta sẽ trao ban sự sống… Ta đã được tiếp đón, Ta sẽ trao ban một mái nhà; Ta đã được thăm viếng khi ốm đau, Ta sẽ trao ban sức khỏe; Ta đã được thăm viếng trong tù, Ta sẽ trao ban sự tự do. Bánh mà các ngươi chia sẻ cho những người nghèo của Ta đã được ăn hết, nhưng bánh Ta ban sẽ không chỉ bồi bổ các ngươi, mà sẽ chẳng bao giờ cạn.” [36] Đấng Toàn Năng sẽ không chịu thua kém lòng quảng đại đối với ai phục vụ những người túng thiếu nhất: tình yêu dành cho người nghèo càng lớn, phần thưởng Thiên Chúa ban càng lớn.

46. Nhãn giới qui Kitô và có tính Giáo hội sâu sắc này dẫn chúng ta đến khẳng định rằng các tặng phẩm, khi xuất phát từ tình yêu, không chỉ xoa dịu nhu cầu của anh chị em mình, mà còn thanh tẩy tâm hồn người trao tặng, nếu người ấy sẵn sàng thay đổi. Thật vậy, theo lời của Augustinô-ngụy danh: “Việc bố thí có thể ích lợi cho bạn trong việc xóa bỏ tội lỗi quá khứ, nếu bạn sửa đổi đường lối của mình.”[37] Có thể nói, đó là con đường thông thường dẫn đến sự hoán cải cho những ai muốn đi theo Chúa Kitô với một trái tim không cắt xén.

47. Trong một Giáo hội nhận ra nơi người nghèo khuôn mặt của Chúa Kitô, và nhận ra khí cụ của đức ái nơi của cải vật chất, tư tưởng của Augustinô vẫn mãi là một ánh sáng chắc chắn. Ngày nay, lòng trung thành với giáo huấn của Augustinô đòi hỏi không chỉ việc nghiên cứu các tác phẩm của ngài, mà còn phải sẵn sàng sống triệt để lời ngài kêu gọi hoán cải, điều vốn thiết yếu bao gồm việc phục vụ bác ái.

48. Nhiều Giáo phụ khác của Giáo hội, cả Đông phương lẫn Tây phương, đã nói về tính mấu chốt của việc quan tâm đến người nghèo trong đời sống và sứ mạng của mọi tín hữu. Tóm lại, từ góc nhìn này, có thể nói rằng thần học Giáo phụ rất thực tiễn, nhắm đến một Giáo hội nghèo và cho người nghèo, nhắc nhớ rằng Tin Mừng chỉ được loan báo đúng đắn khi thúc đẩy chúng ta chạm đến xác thân của những người bé mọn nhất giữa chúng ta, và cảnh báo rằng sự cứng nhắc về giáo lý mà không có lòng thương xót thì chỉ là lời nói suông.

Chăm sóc người ốm đau

49. Lòng trắc ẩn của Kitô giáo đã biểu lộ cách riêng trong việc chăm sóc người bệnh và người đau khổ. Chính dựa trên những dấu chỉ nơi sứ vụ công khai của Chúa Giêsu – việc chữa lành những người mù, những người phong cùi và những người bại liệt – mà Giáo hội hiểu rằng việc chăm sóc những người ốm đau (qua họ Giáo hội nhận ra Chúa chịu đóng đinh) là một phần quan trọng thuộc sứ mạng của mình. Trong thời kỳ dịch bệnh ở Carthage, nơi thánh Cyprianô làm giám mục, ngài đã nhắc nhở các Kitô hữu về tầm quan trọng của việc chăm sóc người bệnh: “Cơn đại dịch này, được thấy rất khủng khiếp và đầy chết chóc, đã thẩm định sự công chính của mỗi người, và thăm dò lòng người, để xem liệu người khỏe mạnh có phục vụ người bệnh hay không; liệu những người thân của nhau có yêu thương nhau chân thành hay không; liệu các người chủ có thương xót những gia nhân ốm đau của mình hay không; liệu các bác sĩ có quyết không bỏ rơi những bệnh nhân đang cầu xin sự giúp đỡ hay không.”[38] Truyền thống Kitô giáo về việc thăm viếng người bệnh, rửa vết thương cho họ, và an ủi những người đau khổ không chỉ đơn thuần là một việc từ thiện, mà còn là một hành động của Giáo hội, qua đó các thành viên Giáo hội “chạm vào xác thân đau đớn của Chúa Kitô.”[39]

50. Vào thế kỷ 16, thánh Gioan Thiên Chúa đã thành lập Dòng Bệnh viện mang tên ngài, xây dựng những bệnh viện kiểu mẫu chào đón tất cả mọi người, bất kể địa vị xã hội hay kinh tế. Câu nói nổi tiếng của ngài, “Hãy làm điều tốt, hỡi anh em của tôi!”, đã trở thành một phương châm cho hoạt động bác ái tích cực đối với người bệnh. Cùng lúc đó, thánh Camillus de LellIs đã thành lập Dòng Tác viên Phục vụ Bệnh nhân – tức Dòng Camilô – đảm nhận sứ mệnh hoàn toàn dấn thân phục vụ người bệnh. Luật của ngài truyền: “Mỗi người hãy cầu xin Chúa ban cho mình một tình thương hiền mẫu đối với tha nhân, để chúng ta có thể phục vụ họ với tất cả lòng bác ái, cả trong tâm hồn lẫn thể xác, bởi vì chúng ta mong muốn, với ân sủng của Chúa, phục vụ tất cả bệnh nhân với tình thương mà một người mẹ yêu thương đứa con duy nhất đang đau yếu của mình.”[40] Trong các bệnh viện, trên chiến trường, trong nhà tù và trên đường phố, các tu sĩ Camilô đã là hiện thân của lòng thương xót nơi Chúa Kitô, Đấng là Nhà Chữa Trị.

51. Chăm sóc người bệnh với tình thương hiền mẫu, như người mẹ chăm sóc con mình, nhiều nữ tu đã đóng một vai trò thậm chí còn quan trọng hơn trong việc cung cấp sự chăm sóc sức khỏe cho người nghèo. Các Nữ tử Bác ái Thánh Vinh Sơn Phaolô, các Nữ tu Bệnh viện, các Tiểu muội Chúa Quan Phòng, và nhiều hội dòng nữ khác đã trở thành một sự hiện diện hiền mẫu tinh tế trong các bệnh viện, các nhà dưỡng lão và các nhà hưu. Họ đã mang đến sự an ủi, lắng nghe, sự hiện diện, và trên hết là sự ân cần. Họ đã xây dựng, thường bằng chính đôi tay của mình, các cơ sở chăm sóc sức khỏe ở những khu vực thiếu sự hỗ trợ y tế. Họ dạy về vệ sinh, hỗ trợ sinh nở và cung cấp thuốc men với sự khôn ngoan tự nhiên và đức tin sâu sắc. Nhà của họ trở thành những ốc đảo của phẩm giá, nơi không ai bị loại trừ. Sự động chạm của lòng thương cảm là phương dược đầu tiên. Thánh Louise de Marillac đã viết cho các chị em của mình, các Nữ tử Bác ái, nhắc nhở họ rằng “họ đã được Chúa ban phước một cách đặc biệt vì đã phục vụ những người nghèo ốm đau trong các bệnh viện.”[41]

52. Ngày nay, di sản này vẫn tiếp tục trong các bệnh viện Công giáo, các cơ sở chăm sóc sức khỏe ở vùng sâu vùng xa, các phòng khám hoạt động trong rừng rậm, các nhà tạm trú cho người nghiện ma túy và các bệnh viện dã chiến ở vùng chiến sự. Sự hiện diện của Kitô hữu giữa những người bệnh cho thấy rằng sự cứu độ không phải là một ý tưởng trừu tượng, nhưng là hành động cụ thể. Trong hành động chữa lành thương tích, Giáo hội tuyên bố rằng Vương quốc của Thiên Chúa bắt đầu nơi những người dễ bị tổn thương nhất. Bằng cách này, Giáo hội trung thành với Đấng đã phán: “Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng Ta” (Mt 25,36). Khi Giáo hội quỳ xuống bên một người phong cùi, một đứa trẻ suy dinh dưỡng hay một người vô danh đang hấp hối, đó là Giáo hội đang chu toàn ơn gọi sâu xa nhất của mình: yêu mến Chúa ở chỗ mà Người bị biến dạng thê thảm nhất.

Việc chăm sóc người nghèo trong đời sống đan tu

53. Đời sống đan tu, khởi nguồn từ sự tĩnh lặng của sa mạc, ngay từ đầu đã là một chứng tá cho tình liên đới. Các nam nữ đan sĩ đã từ bỏ tất cả – của cải, danh vọng, gia đình – không chỉ vì họ xem nhẹ của cải trần gian (contemptus mundiI) mà còn để gặp gỡ Chúa Kitô nghèo khó trong sự siêu thoát triệt để này. Thánh Basiliô Cả, trong Tu Luật của ngài, cho thấy không có sự mâu thuẫn nào giữa đời sống cầu nguyện và chiêm niệm của các đan sĩ với công việc phục vụ người nghèo. Đối với ngài, lòng hiếu khách và sự chăm sóc người túng thiếu là một phần không thể thiếu trong linh đạo đan tu, và các đan sĩ, ngay cả sau khi đã từ bỏ mọi thứ để sống cuộc đời nghèo khó, vẫn phải giúp đỡ những người nghèo nhất bằng công việc của mình, bởi vì “để có đủ điều kiện giúp đỡ người túng thiếu… rõ ràng là chúng ta phải làm việc chăm chỉ… Lối sống này hữu ích không chỉ cho việc chế ngự thân xác, mà còn cho việc thực thi bác ái đối với tha nhân, để qua chúng ta, Thiên Chúa có thể lo liệu cho những anh chị em yếu đuối hơn của chúng ta.”[42]

54. Tại Xêdarê, nơi ngài làm Giám mục, ngài đã xây dựng một cơ sở gọi là Basiliad, bao gồm nhà ở, bệnh viện và trường học cho người nghèo và người bệnh. Như thế, đan sĩ không chỉ là một nhà khổ hạnh, mà còn là một người phục vụ. Qua đó Basiliô đã cho thấy rằng để gần gũi Thiên Chúa, ta phải gần gũi với người nghèo. Tình yêu thương cụ thể là tiêu chuẩn của sự thánh thiện. Cầu nguyện và chăm sóc, chiêm niệm và chữa trị, viết lách và chào đón: tất cả đều thể hiện cùng một tình yêu đối với Chúa Kitô.

55. Ở Tây phương, thánh Bênêđictô thành Norcia đã soạn thảo một Tu Luật mà sau này trở thành xương sống của linh đạo đan tu Âu châu. Việc chào đón người nghèo và khách hành hương được lưu ý đặc biệt trong văn bản này: “Người nghèo và khách hành hương phải được tiếp đón với tất cả sự quan tâm và lòng hiếu khách, vì đón tiếp họ là đón tiếp chính Chúa Kitô.”[43] Đây không chỉ là lời nói suông: trong nhiều thế kỷ, các đan viện Biển Đức là nơi ẩn náu cho các góa phụ, các trẻ em bị bỏ rơi, khách hành hương và người ăn xin. Đối với thánh Bênêđictô, đời sống cộng đoàn là một trường dạy bác ái. Lao động chân tay không chỉ có chức năng thực tiễn, mà còn đào tạo trái tim phục vụ. Việc chia sẻ giữa các đan sĩ, việc chăm sóc người bệnh và lắng nghe những người dễ bị tổn thương nhất đã giúp họ chuẩn bị tiếp đón Chúa Kitô nơi những người nghèo và các khách lạ. Ngày nay, lòng hiếu khách của các đan viện Biển Đức vẫn là dấu chỉ của một Giáo hội mở cửa, chào đón mà không cần hỏi han, và chữa lành mà không đòi hỏi bất cứ điều gì đáp lại.

56. Theo thời gian, các đan viện Biển Đức đã trở thành những nơi vượt qua nền văn hóa loại trừ. Các nam nữ đan sĩ canh tác đất đai, sản xuất lương thực, bào chế và cung ứng thuốc men một cách đơn sơ giản dị cho những người nghèo nhất. Công việc thầm lặng của họ là chất men của một nền văn minh mới, nơi mà người nghèo không phải là một vấn đề để giải quyết, mà là những anh chị em cần được tiếp đón. Nguyên tắc chia sẻ, làm việc cùng nhau và trợ giúp những người yếu thế đã tạo nên một nền kinh tế liên đới, trái ngược với lôgic tích lũy. Chứng tá của các đan sĩ cho thấy rằng sự nghèo khó tự nguyện không phải là sự khốn khổ, mà là con đường của tự do và hiệp thông. Họ không tự giới hạn mình nơi việc giúp đỡ người nghèo: họ trở thành những người thân cận, những anh chị em trong cùng một Chúa. Trong các gian phòng và các nội vi, họ đã kiến tạo được một sự hiện diện thần bí của Thiên Chúa nơi những con người bé mọn.

57. Bên cạnh việc cung cấp sự hỗ trợ vật chất, các đan viện còn đóng một vai trò căn bản trong việc đào tạo văn hóa và tâm linh cho những người khiêm hạ nhất. Trong những thời kỳ dịch bệnh, chiến tranh và đói kém, các đan viện là nơi những người túng thiếu tìm được thực phẩm và thuốc men, cũng như tìm được phẩm giá và tiếng nói nữa. Chính tại đó, các trẻ mồ côi được giáo dục, người học việc được đào tạo và dân chúng được dạy các kỹ thuật canh nông cũng như cách đọc chữ. Kiến thức được chia sẻ như một quà tặng và một trách nhiệm. Viện phụ vừa là thầy vừa là cha, và trường học đan tu là nơi của tự do nhờ chân lý. Thật vậy, như Gioan Cassianô viết, người đan sĩ phải được đặc trưng bởi “trái tim khiêm nhường… điều này không dẫn đến tri ​​thức khoa trương, mà là tri ​​thức ngời sáng nhờ đức ái viên mãn.”[44] Bằng cách đào tạo lương tâm và truyền thụ sự khôn ngoan, các đan sĩ đã đóng góp cho một khoa ‘sư phạm bao gồm’ của Kitô giáo. Văn hóa, mang dấu ấn đức tin, được chia sẻ một cách đơn sơ. Tri thức, tỏa sáng nhờ bác ái, trở thành sự phục vụ. Do đó, đời sống đan tu tự biểu lộ như một phong cách thánh thiện và một con đường cụ thể để chuyển hóa xã hội.

58. Truyền thống đan tu dạy chúng ta rằng cầu nguyện và bác ái, thinh lặng và phục vụ, tu phòng và bệnh viện tạo thành một cấu trúc tâm linh duy nhất. Đan viện là nơi lắng nghe và hành động, thờ phượng và chia sẻ. Thánh Bênađô thành Clairvaux, nhà cải cách vĩ đại của Dòng Xitô, “đã nghiêm khắc nhắc nhở rằng cần phải sống tiết độ và chừng mực, trong ăn uống cũng như trong y phục và nhà cửa, và kêu gọi việc hỗ trợ cũng như chăm sóc người nghèo.”[45] Đối với ngài, lòng trắc ẩn không phải là một lựa chọn, mà là nẻo đường đích thực để theo Chúa Kitô. Do đó, đời sống đan tu, nếu trung thành với ơn gọi nguyên thủy của mình, sẽ cho thấy rằng Giáo hội chỉ đúng nghĩa là hiền thê của Chúa khi Giáo hội cũng là chị em của người nghèo. Nội vi đan viện không chỉ là nơi ẩn náu khỏi trần thế, mà còn là trường học nơi người ta học cách phục vụ trần thế tốt hơn. Ở bất cứ đâu các nam nữ đan sĩ mở cửa đón nhận người nghèo, thì ở đó Giáo hội – với lòng khiêm nhường và kiên định – đã cho thấy rằng việc chiêm niệm không loại trừ lòng thương xót, nhưng đòi hỏi lòng thương xót như là hoa trái tinh khôi nhất của nó.

Giải phóng tù nhân

59. Từ thời các Tông đồ, Giáo hội đã xem việc giải phóng những người bị áp bức là một dấu chỉ của Nước Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu khi bắt đầu sứ vụ công khai của Người đã công bố: “Thần Khí của Chúa ngự trên tôi, vì Ngài đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó. Ngài sai tôi đi công bố sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm” (Lc 4,18). Các Kitô hữu tiên khởi, ngay cả trong những hoàn cảnh bấp bênh, vẫn cầu nguyện và hỗ trợ cho các anh chị em mình đang bị giam cầm, như sách Công vụ Tông đồ (x. 12,5; 24,23) và nhiều văn liệu của các Giáo phụ đã chứng thực. Sứ mạng giải phóng này đã tiếp tục qua các thế kỷ bằng những hành động cụ thể, đặc biệt khi thảm kịch nô lệ và tù đày đã in dấu trên toàn thể xã hội.

60. Thời gian giữa cuối thế kỷ 12 và đầu thế kỷ 13, khi nhiều Kitô hữu bị bắt bớ ở vùng Địa Trung Hải hoặc bị bắt làm nô lệ trong chiến tranh, hai dòng tu đã xuất hiện: Dòng Chúa Ba Ngôi và các Tù nhân (Trinitarians), do thánh Gioan thành Matha và thánh Phêlích thành ValoIs sáng lập, và Dòng Đức Trinh Nữ Maria Thương Xót (Mercedarians), do thánh Phêrô Nolasco sáng lập với sự hỗ trợ của thánh Raymond Peñafort thuộc dòng Đa minh. Các cộng đoàn những người thánh hiến này ra đời với đặc sủng chuyên biệt là giải phóng các Kitô hữu bị bắt làm nô lệ, trao tài sản của mình để chuộc lại những người bị bắt ấy[46], và nhiều trường hợp trao hiến chính mạng sống của mình để đánh đổi như thế. Dòng Chúa Ba Ngôi, với khẩu hiệu Gloria tibi Trinitas et captivIs libertas (tôn vinh Chúa Ba Ngôi, và tự do cho những người bị giam cầm), và dòng Mercedarians, đã thêm lời khấn thứ tư[47] vào các lời khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục, đã chứng tỏ rằng lòng bác ái có thể rất anh hùng. Việc giải phóng các tù nhân là một diễn tả của tình yêu Ba Ngôi: một Thiên Chúa giải thoát không chỉ khỏi ách nô lệ thiêng liêng mà còn khỏi sự áp bức cụ thể. Hành động giải cứu một người khỏi ách nô lệ và tù đày được xem như sự nối dài hy lễ cứu chuộc của Chúa Kitô, Đấng đổ máu ra làm giá cứu chuộc chúng ta (x. 1Cr 6,20).

61. Linh đạo nguyên thủy của các dòng tu này cắm rễ thâm sâu trong việc chiêm ngắm thập giá. Chúa Kitô là Đấng Cứu Chuộc tuyệt hảo của các tù nhân, và Giáo hội, Thân Thể của Người, kéo dài mầu nhiệm này trong thời gian.[48] Các tu sĩ không xem việc cứu chuộc là một hành động chính trị hay kinh tế, mà là một hành vi gần như phụng vụ, là sự dâng hiến chính mình một cách bí tích. Nhiều người đã hiến dâng thân xác mình để thay thế các tù nhân, thực sự chu toàn giáo huấn: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu” (Ga 15,13). Truyền thống của các dòng tu này vẫn không hề kết thúc. Ngược lại, nó đã truyền cảm hứng cho những dạng hành động mới khi đứng trước các hình thức nô lệ hiện đại: buôn người, lao động cưỡng bức, bóc lột tình dục và nhiều hình thức lệ thuộc khác.[49] Bác ái Kitô giáo có sức giải phóng khi nó nhập thể. Tương tự như vậy, sứ mạng của Giáo hội, khi trung thành với Chúa của mình, là luôn luôn công bố sự giải phóng. Ngay cả ngày nay, khi “hàng triệu người – trẻ em, phụ nữ và nam giới ở mọi lứa tuổi – bị tước đoạt tự do và buộc phải sống trong những tình cảnh giống như nô lệ,”[50] di sản ấy được tiếp nối bởi các dòng tu này và các hội dòng khác hoạt động ở các vùng ngoại vi đô thị, các khu vực xung đột và các tuyến đường di cư. Khi Giáo hội cúi xuống để bẻ gãy những xiềng xích mới trói buộc người nghèo, Giáo hội trở thành một dấu chỉ Vượt qua.

62. Chúng ta không thể kết thúc suy tư này về những người bị tước đoạt tự do mà không đề cập đến những người trong các nhà tù và trại giam khác nhau. Về vấn đề này, chúng ta nhớ lại lời Đức Thánh Cha Phanxicô nói với một nhóm tù nhân: “Đối với tôi, việc bước vào một nhà tù luôn là một khoảnh khắc quan trọng, bởi vì nhà tù là một nơi của nhân tính cao cả… Nhân tính bị thử thách, đôi khi bị bào mòn bởi những khó khăn, tội lỗi, phán xét, hiểu lầm, đau khổ, nhưng đồng thời cũng tràn đầy sức mạnh, khao khát được tha thứ và khao khát được cứu chuộc.”[51] Khao khát này, bên cạnh những điều khác, cũng được cưu mang bởi các dòng tu dấn thân cho việc giải cứu tù nhân xét như một việc phục vụ ưu tiên đối với Giáo hội. Như thánh Phaolô tuyên bố: “Chính để chúng ta được tự do mà Chúa Kitô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5,1). Sự tự do này không chỉ là bên trong: nó thể hiện trong lịch sử như tình yêu thương chăm sóc và giải phóng chúng ta khỏi mọi xiềng xích nô lệ.

Những chứng nhân của sự nghèo khó theo Tin Mừng

63. Vào thế kỷ 13, trước sự phát triển của các thành phố, sự tập trung của cải và sự xuất hiện của những dạng nghèo mới, Chúa Thánh Thần đã khơi dậy một hình thức thánh hiến mới trong Giáo hội: các dòng hành khất. Khác với mô hình đan tu ổn định, các tu sĩ hành khất chọn một lối sống cơ động, không sở hữu tài sản riêng hay chung, hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng. Họ không chỉ phục vụ người nghèo: họ trở nên nghèo cùng với người nghèo. Họ coi thành phố như một sa mạc mới và những người bị gạt ra ngoài lề xã hội như những bậc thầy tâm linh mới. Các dòng này, như dòng Phanxicô, dòng Đa minh, dòng Augustinô và dòng Cát minh, đại diện cho một cuộc cách mạng Phúc Âm, trong đó lối sống giản dị và nghèo khó trở thành một dấu chỉ ngôn sứ cho sứ mạng, làm sống lại kinh nghiệm của cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên (x. Công vụ 4,32). Chứng tá của các khất sĩ đã thách thức cả sự xa hoa của giới giáo sĩ lẫn sự lạnh nhạt của xã hội đô thị.

64. Thánh Phanxicô Assisi đã trở thành biểu tượng của mùa xuân tâm linh này. Bằng cách đảm nhận sự nghèo khó, ngài muốn noi gương Chúa Kitô, Đấng nghèo khó, trần truồng và bị đóng đinh. Trong Qui Luật của mình, ngài yêu cầu “các anh em không được chiếm hữu bất cứ thứ gì, dù là nhà cửa, nơi chốn hay bất cứ thứ gì khác. Và trong tư cách những người hành hương và khách lạ trên thế gian này, phục vụ Chúa trong nghèo khó và khiêm nhường, họ nên đi ăn xin với lòng tin tưởng, không nên xấu hổ, vì Chúa đã trở nên nghèo khó vì chúng ta ở thế gian này.”[52] Cuộc đời của ngài là một cuộc đời không ngừng trút rỗng chính mình: từ dinh thự đến người phung cùi, từ hùng biện đến thinh lặng, từ sở hữu đến trao tặng tất cả. Phanxicô không thành lập một tổ chức dịch vụ xã hội, mà là một đời sống huynh đệ theo Tin Mừng. Ngài nhìn thấy nơi người nghèo là những anh chị em mình, những hình ảnh sống động của Chúa. Sứ mạng của ngài là ở bên họ, và ngài làm như thế với một tình liên đới vượt qua các khoảng cách, và với một tình yêu thương đầy trắc ẩn. Sự nghèo khó của Phanxicô mang tính tương quan: nó giúp ngài trở thành người thân cận, ngang hàng hay thậm chí thấp kém hơn những người khác. Sự thánh thiện của ngài phát tỏa từ niềm xác tín rằng người ta chỉ có thể thực sự đón nhận Chúa Kitô bằng cách quảng đại hiến thân cho anh chị em mình.

65. Thánh Clara thành Assisi, được thánh Phanxicô truyền cảm hứng, đã thành lập Dòng Các Bà Nghèo, sau này được gọi là Dòng Clara Nghèo. Cuộc chiến đấu thiêng liêng của ngài cốt ở việc trung thành gìn giữ lý tưởng sống khó nghèo triệt để. Ngài từ chối các đặc ân của giáo hoàng vốn có thể bảo đảm sự an toàn vật chất cho đan viện của mình, và với sự kiên định ngài đã xin được từ Đức Giáo hoàng Gregory IX cái gọi là Đặc quyền Nghèo khó (Privilegium Paupertatis), bảo đảm quyền sống mà không cần bất kỳ của cải vật chất nào.[53] Sự lựa chọn này diễn tả niềm tín thác hoàn toàn của ngài đặt nơi Thiên Chúa, và cho thấy ngài ý thức rằng sự nghèo khó tự nguyện là một hình thức của tự do và của tính ngôn sứ. Clara dạy các chị em của mình rằng Chúa Kitô là gia nghiệp duy nhất của họ và không gì có thể che khuất sự hiệp thông của họ với Người. Đời sống cầu nguyện và ẩn dật của thánh nữ là một tiếng kêu chống lại tính thế tục và là sự bảo vệ thầm lặng cho những người nghèo và những người bị lãng quên.

66. Thánh Đaminh, một người cùng thời với thánh Phanxicô, đã thành lập Dòng Anh em Thuyết giáo, với một đặc sủng khác nhưng vẫn giữ nguyên tính cấp tiến của lối sống. Ngài muốn rao giảng Tin Mừng với thẩm quyền rút ra từ một đời sống khó nghèo, xác tín rằng Chân Lý cần những chứng tá chính trực. Gương sống nghèo khó của họ đi kèm với Lời mà họ rao giảng. Được tự do khỏi gánh nặng của cải trần gian, các tu sĩ Đaminh có thể tận tâm hơn với công việc rao giảng chính yếu của mình. Họ đến các thành phố, nhất là các trường đại học, để giảng dạy sự thật về Thiên Chúa.[54] Trong sự lệ thuộc vào người khác, họ cho thấy đức tin không bị áp đặt mà được ban tặng. Và bằng cách sống giữa những người nghèo, họ học được chân lý của Phúc Âm “từ bên dưới”, như các môn đệ của Chúa Kitô bị sỉ nhục.

67. Do đó, các dòng hành khất là một phản ứng sống động trước sự loại trừ và thờ ơ. Họ không đề xuất rõ ràng các cải cách xã hội, mà là một sự hoán cải cá nhân và cộng đồng theo lôgic của Nước Trời. Đối với họ, sự nghèo khó không phải là bởi khan hiếm của cải, mà là một lựa chọn tự do: chính mình trở nên bé mọn để tiếp đón những người bé mọn. Như Thomas Celano đã nói về Phanxicô: “Ngài cho thấy ngài rất mực yêu thương người nghèo… Ngài thường cởi áo mình để trao cho người nghèo, những người mà ngài muốn trở nên giống họ.”[55] Những người hành khất trở thành biểu tượng của một Giáo hội lữ hành, khiêm nhường và huynh đệ, sống giữa người nghèo không phải để chiêu dụ cải đạo mà là để thể hiện căn tính đích thực của mình. Họ dạy chúng ta rằng Giáo hội là ánh sáng khi Giáo hội từ bỏ mọi thứ, và rằng sự thánh thiện đi xuyên qua một trái tim khiêm nhường hiến mình cho những người hèn mọn nhất giữa chúng ta.

Giáo hội và việc giáo dục người nghèo

68. Phát biểu với các nhà giáo dục, Đức Giáo hoàng Phanxicô nhắc lại rằng giáo dục luôn là một trong những diễn tả cao nhất của lòng bác ái Kitô giáo: “Sứ mạng của anh chị em đầy những trở ngại cũng như những niềm vui… Một sứ mạng của tình yêu, bởi vì anh chị em không thể giảng dạy mà không yêu thương.”[56] Trong cảm thức này, từ thời xa xưa, các Kitô hữu đã hiểu rằng tri ​​thức có sức giải phóng, mang lại phẩm giá, và đưa chúng ta đến gần chân lý hơn. Đối với Giáo hội, việc dạy dỗ người nghèo là một hành động của công lý và của đức tin. Được gợi hứng từ tấm gương của Vị Tôn Sư đã dạy cho con người những chân lý nhân loại và thần linh, Giáo hội đã đảm nhận sứ mạng đào tạo trẻ em và thanh thiếu niên, đặc biệt là những người nghèo nhất, trong sự thật và tình yêu. Sứ mạng này được xúc tiến với việc thành lập các dòng tu dành riêng cho giáo dục.

69. Vào thế kỷ 16, thánh Joseph Calasanz, bị sốc trước tình trạng thiếu sự giáo dục và đào tạo trong giới trẻ nghèo ở Rôma, đã thành lập trường công miễn phí đầu tiên của Châu Âu trong một số phòng kế bên nhà thờ Santa Dorotea ở Trastevere. Đây chính là hạt giống mà sau này làm xuất hiện và phát triển Dòng Giáo sĩ Nghèo Mẹ Thiên Chúa của các Trường Đạo, được gọi là Dòng Piarists, mặc dù không phải là không gặp khó khăn. Mục tiêu của dòng là truyền đạt cho giới trẻ “không chỉ kiến ​​thức đời mà cả sự khôn ngoan của Phúc Âm, dạy họ nhận ra trong cuộc đời của họ và trong lịch sử hành động yêu thương của Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo và Cứu Chuộc”.[57] Thực vậy, chúng ta có thể coi vị linh mục can đảm này là “người sáng lập đích thực của trường Công giáo hiện đại, hướng tới việc đào tạo toàn diện con người, và mở ra cho tất cả mọi người”.[58] Được cảm hứng bởi cùng một sự nhạy cảm đó, thánh Gioan Baotixita La San, nhận ra sự bất công do việc loại trừ con cái của các công nhân và người dân thường khỏi hệ thống giáo dục của Pháp vào thời ấy, đã thành lập Dòng Anh em Trường Kitô giáo vào thế kỷ 17, với lý tưởng cung cấp cho các em nền giáo dục miễn phí, sự đào tạo vững chắc, và một môi trường huynh đệ. Thánh Gioan La San coi lớp học là một nơi phát triển nhân bản, nhưng cũng là nơi hoán cải. Trong các trường của ngài, việc cầu nguyện, phương pháp, kỷ luật và việc chia sẻ được kết hợp lại. Mỗi đứa trẻ được xem là một món quà độc đáo từ Thiên Chúa, và việc dạy dỗ là một sự phục vụ cho Vương quốc của Thiên Chúa.

70. Vào thế kỷ 19, cũng tại Pháp, thánh Marcellin Champagnat đã thành lập cộng đoàn Sư huynh Marist của Trường học. “Ngài nhạy cảm với các nhu cầu tâm linh và giáo dục của thời đại mình, đặc biệt là sự thiếu hiểu biết về tôn giáo và tình trạng bị bỏ rơi mà cách riêng giới trẻ đang phải chịu.” [59] Ngài đã hết lòng cống hiến cho sứ mạng giáo dục và Phúc âm hóa trẻ em và thanh thiếu niên, đặc biệt là những người cần nhất, trong một thời kỳ mà việc tiếp cận giáo dục vẫn là đặc quyền của một số ít người. Với tinh thần tương tự, thánh Gioan Bosco đã bắt đầu công cuộc vĩ đại của các Salêdiêng tại Ý dựa trên ba nguyên tắc của “phương pháp dự phòng” – lý trí, tôn giáo và lòng nhân ái. [60] Chân phước Antonio Rosmini đã thành lập Tu hội Bác ái, trong đó “bác ái trí tuệ” được đặt bên cạnh “bác ái vật chất”, với “bác ái tâm linh-mục vụ” đặt ở vị trí hàng đầu, như một chiều kích không thể thiếu của bất kỳ hoạt động bác ái nào nhằm mục đích phát triển con người một cách tốt đẹp và toàn diện.[61]

71. Nhiều dòng nữ là những tác nhân chính của cuộc cách mạng sư phạm này. Được thành lập vào thế kỷ 18 và 19, các nữ tu Ursulines, các nữ tu Dòng Đức Mẹ Maria, các nữ tu Maestre Pie và nhiều dòng khác… đã bước vào những không gian mà nhà nước vắng mặt. Họ thành lập trường học ở những làng nhỏ, những vùng ngoại ô và các khu dân cư lao động. Đặc biệt, việc giáo dục các em gái trở thành ưu tiên hàng đầu. Các nữ tu dạy chữ, Phúc Âm hóa, chăm lo những vấn đề thực tế của cuộc sống hàng ngày, nâng cao tinh thần thông qua trau dồi nghệ thuật, và trên hết là đào tạo lương tâm. Phương pháp sư phạm của họ rất đơn giản: gần gũi, kiên nhẫn và dịu dàng. Họ dạy bằng gương sống của mình trước khi dạy bằng lời nói. Vào thời nạn mù chữ lan rộng và sự loại trừ có hệ thống, những phụ nữ thánh hiến này là những ngọn hải đăng của hy vọng. Sứ mạng của họ là đào tạo trái tim, dạy mọi người suy nghĩ, và thăng tiến phẩm giá. Bằng cách kết hợp một đời sống đạo đức và sự dấn thân cho người khác, họ đã chống lại sự bỏ rơi bằng sự dịu dàng của những nhà giáo dục nhân danh Chúa Kitô.

72. Đối với đức tin Kitô giáo, việc giáo dục người nghèo không phải là một việc thi ân mà là một bổn phận. Trẻ em có quyền được hiểu biết như một yêu cầu cơ bản để nhận biết phẩm giá con người. Việc dạy dỗ các em khẳng định giá trị của các em, trao cho các em những công cụ để biến đổi thực tế của mình. Truyền thống Kitô giáo coi sự hiểu biết là một món quà của Thiên Chúa và là một trách nhiệm cộng đồng. Giáo dục Kitô giáo không chỉ đào tạo nên những người chuyên nghiệp, mà còn đào tạo nên những con người cởi mở với chân, thiện, mỹ. Do đó, các trường Công giáo, khi trung thành với danh nghĩa của mình, sẽ là nơi đón nhận mọi người, nơi của sự đào tạo toàn diện và phát triển nhân bản. Bằng cách kết hợp đức tin và văn hóa, các trường này gieo mầm tương lai, tôn vinh hình ảnh Thiên Chúa và xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.

Đồng hành với người di cư

73. Kinh nghiệm di cư gắn liền với lịch sử của Dân Thiên Chúa. Abraham lên đường mà không biết mình sẽ đi đâu; Môsê dẫn dắt dân hành hương qua sa mạc; Maria và Giuse trốn sang Ai cập cùng Hài nhi Giêsu. Chính Chúa Kitô, Đấng “đã đến nhà mình, nhưng dân mình chẳng đón nhận” (Ga 1,11), đã sống giữa chúng ta như một khách lạ. Vì lý do này, Giáo hội luôn nhận ra nơi những người di cư sự hiện diện sống động của Chúa, Đấng vào ngày phán xét sẽ nói với những người bên phải Người: “Ta là khách lạ và các ngươi đã tiếp đón Ta” (Mt 25,35).

74. Vào thế kỷ 19, khi hàng triệu người Châu Âu di cư để tìm kiếm điều kiện sống tốt hơn, hai vị thánh vĩ đại đã nổi bật trong việc chăm sóc mục vụ cho di dân: Thánh Gioan Baotixita Scalabrini và thánh Phanxicô Xaviê Cabrini. Scalabrini, giám mục Piacenza, đã thành lập Dòng Thừa sai Thánh Charles để đồng hành cùng người di cư tới điểm đến của họ, cung cấp cho họ sự hỗ trợ về vật chất, pháp lý và tinh thần. Ngài coi người di cư là những người tiếp nhận một công cuộc Phúc Âm hóa mới, cảnh báo về những nguy cơ bị bóc lột và mất đức tin ở một vùng đất xa lạ. Quảng đại đáp lại đặc sủng mà Chúa đã ban cho mình, “Scalabrini hướng đến một thế giới và một Giáo hội không có rào cản, nơi không ai là người ngoại bang.” [62] Thánh Frances Cabrini, sinh ra tại Ý và là một người Mỹ nhập tịch, là công dân đầu tiên của Hoa Kỳ được tuyên thánh. Để hoàn thành sứ mạng hỗ trợ người di cư, ngài đã vượt Đại Tây Dương nhiều lần. “Được trang bị một lòng dũng cảm đáng kinh ngạc, ngài đã thành lập các trường học, bệnh viện và cô nhi viện từ con số không, cho số đông người nghèo mạo hiểm đến thế giới mới để tìm kiếm việc làm. Không biết ngôn ngữ và không có đủ phương tiện để tìm một vị trí sáng sủa trong xã hội Mỹ, họ thường là nạn nhân của những kẻ vô đạo đức. Trái tim hiền mẫu của ngài, không cho phép ngài nghỉ ngơi, đã vươn tới họ ở khắp nơi: trong những túp lều, những nhà tù và các hầm mỏ.”[63] Trong Năm Thánh 1950, Đức Giáo hoàng Piô XII đã tuyên bố ngài là Bổn mạng của Mọi Người Di cư.[64]

75. Truyền thống làm việc vì di dân và với di dân của Giáo hội vẫn tiếp tục, và ngày nay sự phục vụ này được thể hiện qua các sáng kiến ​​như các trung tâm tiếp nhận người tị nạn, các phái bộ biên giới, các nỗ lực của Caritas Quốc tế và các thiết chế khác. Giáo huấn hiện nay tái khẳng định rõ ràng sự dấn thân này. Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nhắc lại rằng sứ mạng của Giáo hội đối với người di cư và người tị nạn thậm chí còn rộng lớn hơn, nhấn mạnh rằng “sự đáp trả của chúng ta trước những thách thức do hiện tượng di cư ngày nay có thể được tóm tắt trong bốn động từ: chào đón, bảo vệ, thăng tiến và hội nhập. Tuy nhiên, những động từ này áp dụng không chỉ cho người di cư và người tị nạn. Chúng mô tả sứ mạng của Giáo hội đối với tất cả những người đang sống ở các vùng ngoại vi hiện sinh, những người cần được chào đón, bảo vệ, thăng tiến và hội nhập.” [65] Ngài cũng nói: “Mỗi con người đều là con của Thiên Chúa! Họ mang hình ảnh của Chúa Kitô! Chính chúng ta cần phải nhìn thấy, và sau đó giúp người khác nhìn thấy, rằng người di cư và người tị nạn không chỉ là một vấn đề cần giải quyết, mà còn là anh chị em cần được chào đón, tôn trọng và yêu thương. Họ là một cơ hội mà Chúa Quan phòng ban cho chúng ta để giúp xây dựng một xã hội công bằng hơn, một nền dân chủ hoàn hảo hơn, một đất nước đoàn kết hơn, một thế giới huynh đệ hơn, và một cộng đoàn Kitô hữu cởi mở hơn và có chất Tin Mừng hơn.”[66] Giáo hội, như một người mẹ, đồng hành với những ai đang bước đi. Ở nơi mà thế giới nhìn thấy những mối đe dọa, thì Giáo hội nhìn thấy các trẻ em; nơi mà các bức tường được xây lên, Giáo hội sẽ xây những cây cầu. Giáo hội biết rằng lời công bố Tin Mừng của mình chỉ đáng tin cậy khi được chuyển dịch thành những cử chỉ ân cần tiếp đón. Và Giáo hội biết rằng nơi mỗi người di cư bị từ khước, chính Chúa Kitô đang gõ cửa cộng đồng.

Hỗ trợ những người bé mọn nhất giữa chúng ta

76. Sự thánh thiện của Kitô giáo thường bừng nở ở những nơi bị lãng quên và tổn thương nhất của nhân loại. Những người nghèo nhất trong số những người nghèo – là những người thiếu thốn không chỉ của cải vật chất, mà còn thiếu cả tiếng nói và sự nhìn nhận phẩm giá của họ – có một chỗ đặc biệt trong trái tim Thiên Chúa. Họ là những ‘người được Chúa yêu’ của Phúc Âm, những người thừa kế Vương quốc (x. Lc 6,20). Chính nơi họ, Chúa Kitô tiếp tục chịu đau khổ và phục sinh. Chính nơi họ, Giáo hội tái khám phá tiếng gọi thể hiện chính mình cách chân thực nhất.

77. Thánh Têrêsa Calcutta, được tuyên thánh năm 2016, đã trở thành một biểu tượng phổ quát của lòng bác ái được sống ở mức trọn vẹn nhất vì những người khốn khổ nhất, những người bị xã hội vứt bỏ. Là người sáng lập Dòng Thừa Sai Bác Ái, ngài đã dành trọn cuộc đời mình cho những người hấp hối bị bỏ rơi trên đường phố Ấn Độ. Ngài đã thu nhận những người bị bỏ rơi, rửa sạch vết thương của họ và đồng hành với họ cho đến giờ chết, với lời cầu nguyện ân cần trìu mến. Tình yêu của Mẹ dành cho những người nghèo khổ nhất trong số những người nghèo cho thấy Mẹ không chỉ chăm sóc nhu cầu vật chất của họ, mà còn loan báo Tin Mừng cho họ: “Chúng tôi muốn loan báo Tin Mừng cho người nghèo rằng Thiên Chúa yêu thương họ, rằng chúng ta yêu thương họ, rằng họ quan trọng đối với chúng ta, rằng họ cũng được tạo dựng bởi cùng một bàn tay yêu thương của Thiên Chúa, để yêu thương và được yêu thương. Những người nghèo của chúng ta là những con người vĩ đại, những con người rất đáng yêu, họ không cần lòng thương hại và sự ‘xót xa tội nghiệp’ của chúng ta, họ cần tình yêu thương đầy cảm thông của chúng ta. Họ cần chúng ta tôn trọng; họ cần chúng ta đối xử với họ như một người có phẩm giá.”[67] Tất cả những điều này xuất phát từ một linh đạo sâu xa, coi việc phục vụ những người nghèo nhất là hoa trái của cầu nguyện và yêu thương, nguồn gốc của hòa bình đích thực, như Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhắc nhở những người hành hương đến Rôma tham dự lễ phong chân phước cho Mẹ: “Mẹ Têrêsa đã tìm thấy sức mạnh ở đâu để hoàn toàn dấn thân phục vụ người khác? Mẹ tìm thấy sức mạnh đó trong cầu nguyện và trong thinh lặng chiêm ngắm Chúa Giêsu Kitô, chiêm ngắm Thánh Nhan của Người, Thánh Tâm Người. Chính Mẹ đã nói: ‘Hoa trái của thinh lặng là cầu nguyện; hoa trái của cầu nguyện là đức tin; hoa trái của đức tin là tình yêu; hoa trái của tình yêu là sự phục vụ.’ Chính việc cầu nguyện đã đong đầy trong trái tim Mẹ sự bình an của Chúa Kitô và giúp Mẹ lan tỏa sự bình an ấy đến cho người khác.”[68] Mẹ Têrêsa không coi mình là một nhà từ thiện hay một nhà hoạt động, mà là một hiền thê của Chúa Kitô chịu đóng đinh, phục vụ các anh chị em đau khổ của mình với trọn tình yêu thương.

78. Tại Brazil, thánh Dulce của Người Nghèo – được gọi là “thiên thần tốt lành của Bahia” – thể hiện cùng một tinh thần Tin Mừng với những nét đặc trưng Brazil. Nói về ngài và hai nữ tu khác được tuyên thánh trong cùng một buổi lễ, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc lại tình yêu của các nữ tu này dành cho những người bị xã hội hất hủi nhiều nhất, và ghi nhận rằng các vị thánh mới này “cho ta thấy rằng đời sống thánh hiến là một hành trình yêu thương ở những vùng ngoại vi hiện sinh của thế giới”.[69] Chị Dulce đã đáp lại tình trạng bấp bênh bằng sự sáng tạo, đáp lại những chướng ngại bằng sự dịu dàng, và đáp lại sự thiếu thốn bằng đức tin không lay chuyển. Chị bắt đầu bằng việc tiếp nhận người bệnh trong một chuồng gà, và từ đó lập ra một trong những dịch vụ xã hội lớn nhất cả nước. Chị đã giúp đỡ hàng ngàn người mỗi ngày, mà không bao giờ đánh mất sự dịu dàng của mình, trở nên nghèo khó với người nghèo vì tình yêu dành cho Đấng Nghèo Nhất. Chị sống với nhu cầu tối thiểu, chị cầu nguyện sốt sắng và phục vụ với niềm vui. Đức tin của chị không làm chị xa cách thế gian, nhưng thậm chí giúp chị đi vào sâu hơn trong nỗi đau của những người bé mọn nhất giữa chúng ta.

79. Chúng ta cũng có thể nhắc đến những cá nhân như thánh Benedict Menni và các Nữ tu Bệnh viện Thánh Tâm Chúa Giêsu, là những người đã làm việc sát cánh với những người khuyết tật; thánh Charles de Foucauld giữa các cộng đồng ở Sahara; thánh Katharine Drexel với những nhóm người thiệt thòi nhất ở Bắc Mỹ; Nữ tu Emmanuelle, với những người hốt rác ở khu phố Ezbet El Nakhl của Cairo; và nhiều vị khác. Mỗi người theo cách riêng của mình đã khám phá ra rằng những người nghèo nhất không chỉ là đối tượng của lòng trắc ẩn nơi chúng ta, mà còn là những thầy dạy Tin Mừng. Vấn đề không phải là “mang” Chúa đến với họ, mà là gặp gỡ Ngài nơi họ. Tất cả những tấm gương này dạy chúng ta rằng phục vụ người nghèo không phải là một cử chỉ ban phát “từ trên cao”, mà là một sự gặp gỡ giữa những người bình đẳng, trong đó Chúa Kitô được tỏ lộ và được tôn thờ. Thánh Gioan Phaolô II đã nhắc chúng ta rằng “có một sự hiện diện đặc biệt của Chúa Kitô nơi người nghèo, và điều này đòi hỏi Giáo hội phải ưu tiên lựa chọn họ”.[70] Vì vậy, khi cúi xuống chăm sóc người nghèo, Giáo hội đang giữ vị thế cao nhất của mình.

Các Phong trào Đại chúng

80. Chúng ta cũng phải thừa nhận rằng xuyên qua các thế kỷ lịch sử Kitô giáo, việc giúp đỡ người nghèo và đấu tranh cho quyền lợi của họ không chỉ liên quan đến cá nhân, gia đình, tổ chức hay các cộng đoàn tu sĩ. Đã có và vẫn đang có nhiều phong trào đại chúng khác nhau do giáo dân thành lập và do các nhà lãnh đạo quần chúng hướng dẫn, những người thường bị nhìn với sự nghi ngờ và thậm chí bị đàn áp. Tôi đang nói đến “tất cả những ai đang bước đi, không phải với tư cách những cá nhân, mà như một cộng đồng gắn bó chặt chẽ của mọi người và vì mọi người, một cộng đồng nói ‘không’ với việc bỏ rơi người nghèo và những người dễ bị tổn thương lại phía sau… Vậy thì, các nhà lãnh đạo ‘quần chúng’ là những người có khả năng vận động mọi người… Họ không xa lánh hay sợ hãi những người trẻ đã kinh nghiệm sự tổn thương hoặc đã mang vác gánh nặng của thập giá.”[71]

81. Những nhà lãnh đạo quần chúng này biết rằng sự liên đới “cũng có nghĩa là đấu tranh chống lại các nguyên nhân mang tính cơ cấu của tình trạng nghèo và bất bình đẳng; tình trạng không có việc làm, không có đất đai và nhà ở; sự phủ nhận các quyền xã hội và lao động. Điều này có nghĩa là đối mặt với những tác động tàn phá của đế chế tiền bạc… Liên đới, được hiểu theo nghĩa thâm sâu nhất của nó, là một cách để làm nên lịch sử, và đây chính là điều mà các phong trào đại chúng đang làm.”[72] Vì lý do này, khi các thiết chế khác nhau suy nghĩ về các nhu cầu của người nghèo, cần phải “bao gồm các phong trào đại chúng và tiếp thêm sinh lực cho các cơ cấu quản trị ở địa phương, quốc gia và quốc tế bằng dòng năng lượng đạo đức tuôn chảy từ việc bao gồm những người bị loại trừ trong việc xây dựng một vận mệnh chung”.[73] Trên thực tế, các phong trào đại chúng mời gọi chúng ta vượt qua “ý tưởng về các chính sách xã hội là một chính sách cho người nghèo, mà không bao giờ với người nghèo, và cũng chẳng bao giờ của người nghèo, càng không phải là một phần của dự án có thể đưa mọi người lại với nhau”.[74] Nếu các chính trị gia và các chuyên gia không lắng nghe họ, “nền dân chủ sẽ suy thoái, biến thành một khẩu hiệu, một công thức; nó mất đi tính đại diện và trở nên mơ hồ, vì nó bỏ rơi dân chúng trong cuộc đấu tranh hàng ngày của họ cho phẩm giá, trong việc xây dựng tương lai của họ”.[75] Cũng phải nói tương tự về các thể chế của Giáo hội.

CHƯƠNG BỐN: MỘT LỊCH SỬ ĐANG TIẾP DIỄN

Thế kỷ của Học thuyết Xã hội của Giáo hội

82. Sự tăng tốc của thay đổi về công nghệ và xã hội trong hai thế kỷ qua, với tất cả những mâu thuẫn và xung đột của nó, không chỉ tác động đến cuộc sống của người nghèo mà còn trở thành đối tượng tranh luận và suy tư của họ. Các phong trào khác nhau của công nhân, phụ nữ và thanh niên, cùng với cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc, đã khơi lên một sự trân trọng mới đối với phẩm giá của những người ở bên lề xã hội. Học thuyết xã hội của Giáo hội cũng xuất hiện từ ma trận này. Việc phân tích mặc khải Kitô giáo trong bối cảnh các vấn đề xã hội, lao động, kinh tế và văn hóa hiện đại sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự đóng góp của giáo dân, cả nam lẫn nữ, là những người đã vật lộn với những vấn đề lớn của thời đại. Bên cạnh họ là những nam nữ tu sĩ, hiện thân của một Giáo hội đang tiến bước theo những chiều hướng mới. Sự thay đổi mang tính thời đại mà chúng ta đang trải qua hiện nay càng làm cho sự tương tác thường xuyên giữa các tín hữu và Huấn quyền của Giáo hội, giữa công dân bình thường và các chuyên gia, giữa các cá nhân và các thiết chế trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Ở đây, một lần nữa cần phải thừa nhận rằng cách nhìn thực tại tốt nhất là nhìn từ bên lề, và rằng người nghèo sở hữu những hiểu biết độc đáo không thể thiếu đối với Giáo hội và đối với toàn thể nhân loại.

83. Huấn quyền của Giáo hội trong 150 năm qua là một kho tàng thực sự chứa đựng những giáo huấn quan trọng về người nghèo. Các Giám mục Rôma đã nói lên những nhận thức mới được chắt lọc qua một quá trình phân định trong Giáo hội. Ví dụ, trong Thông điệp Rerum Novarum, Đức Lêô XIII đã đề cập đến vấn đề lao động, chỉ ra những điều kiện sống không thể chịu đựng được của nhiều công nhân nhà máy, và luận giải rằng cần phải thiết lập một trật tự xã hội công bằng. Các giáo hoàng khác cũng đã nói về chủ đề này. Thánh Gioan XXIII, trong Thông điệp Mater et Magistra (1961), đã kêu gọi công lý trên phạm vi toàn cầu: các nước giàu không thể tiếp tục thờ ơ với các nước đang phải chịu đựng nạn đói và nghèo khổ cùng cực; thay vào đó, các nước giàu được kêu gọi hỗ trợ các nước nghèo một cách quảng đại bằng mọi nguồn lực của mình.

84. Công đồng Vatican II là một cột mốc quan trọng trong nhận thức của Giáo hội về người nghèo trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Mặc dù chủ đề này vẫn nằm ngoài lề trong các tài liệu chuẩn bị, thánh Gioan XXIII, trong Sứ điệp truyền thanh ngày 11 tháng 9 năm 1962, một tháng trước khi khai mạc Công đồng, đã kêu gọi quan tâm đến vấn đề này. Thật đáng nhớ những lời của ngài, rằng “Giáo hội giới thiệu mình là gì và mình mong muốn trở thành gì: là Giáo hội của mọi người và cách riêng Giáo hội của người nghèo.”[76] Những nỗ lực lớn lao của các giám mục, các nhà thần học và các chuyên gia quan tâm đến việc canh tân Giáo hội – với sự hỗ trợ của chính thánh Gioan XXIII – đã đem lại cho Công đồng một chiều hướng mới. Tính trung tâm của Chúa Kitô trong những cân nhắc này, cả trên bình diện giáo lý lẫn xã hội, sẽ được thấy là có tính nền tảng. Nhiều Nghị phụ Công đồng đã ủng hộ cách tiếp cận này, như Đức Hồng y Lercaro đã diễn đạt hùng hồn trong tham luận của ngài ngày 6 tháng 12 năm 1962: “Mầu nhiệm Chúa Kitô trong Giáo hội luôn luôn – và cách riêng ngày nay – là mầu nhiệm Chúa Kitô trong người nghèo.”[77] Ngài tiếp tục nói rằng “đây không phải là một chủ đề giữa những chủ đề khác, mà theo một nghĩa nào đó, đây là chủ đề duy nhất của toàn bộ Công đồng.”[78] Vị Tổng Giám mục của Bologna, khi chuẩn bị văn bản cho bài tham luận này, đã ghi chú như sau: “Đây là giờ của người nghèo, của hàng triệu người nghèo trên khắp thế giới. Đây là giờ của mầu nhiệm Giáo hội là mẹ của người nghèo. Đây là giờ của mầu nhiệm Chúa Kitô hiện diện đặc biệt nơi người nghèo.”[79] Có một cảm thức ngày càng tăng rằng cần có một hình ảnh mới về Giáo hội, một hình ảnh đơn giản và xác đáng hơn, bao gồm toàn thể dân Chúa và sự hiện diện của dân Chúa trong lịch sử. Một Giáo hội giống Chúa của mình hơn các quyền lực thế gian, và nỗ lực thúc đẩy một sự dấn thân cụ thể của toàn nhân loại để giải quyết vấn đề to lớn là sự nghèo đói trên thế giới.

85. Khi khai mạc khóa họp thứ hai của Công đồng, thánh Phaolô VI đã tiếp nối mối quan tâm này do vị tiền nhiệm của ngài nêu ra, cụ thể là Giáo hội đặc biệt lưu tâm “đến người nghèo, những người túng thiếu, những người khốn khó, đói khát, đau khổ, những người bị giam cầm, nghĩa là Giáo hội hướng đến toàn thể nhân loại đang đau khổ và than khóc: Giáo hội là một phần của họ, theo tinh thần của Tin Mừng.”[80] Trong buổi Tiếp kiến ​​chung ngày 11 tháng 11 năm 1964, ngài đã chỉ ra rằng “người nghèo là đại diện của Chúa Kitô,” và ngài so sánh hình ảnh của Chúa nơi người nghèo với hình ảnh được thấy nơi Giáo hoàng. Ngài khẳng định sự thật này như sau: “Tính đại diện Chúa Kitô nơi người nghèo thì phổ quát; mọi người nghèo đều phản ánh Chúa Kitô; còn tính đại diện Chúa Kitô nơi Giáo hoàng thì mang tính cá nhân… Người nghèo và Phêrô có thể hợp nhất trong cùng một con người, mang tính đại diện kép; đại diện của sự nghèo khó và đại diện của quyền bính.”[81] Theo cách này, mối liên kết nội tại giữa Giáo hội và người nghèo đã được diễn tả đầy tính biểu tượng và với sự rõ ràng chưa từng có.

86. Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, dựa trên giáo huấn của các Giáo phụ, mạnh mẽ tái khẳng định mục đích phổ quát của các của cải trần gian và chức năng xã hội của tài sản phát sinh từ đó. Hiến chế tuyên bố rằng “Thiên Chúa đã định liệu trái đất và tất cả những gì chứa đựng trong đó cho tất cả mọi người và mọi quốc gia, để tất cả những gì được tạo ra đều được chia sẻ công bằng cho toàn thể nhân loại dưới sự hướng dẫn của công lý được điều hòa bởi đức ái… Khi sử dụng của cải, con người phải coi của cải vật chất mà họ sở hữu hợp pháp không chỉ là của riêng mình, mà còn là của chung cho người khác, theo nghĩa là chúng có thể hữu ích cho người khác cũng như cho chính mình. Vì thế, mọi người đều có quyền sở hữu một lượng đủ của cải trần gian cho bản thân và gia đình… Những người trong tình trạng cực kỳ túng thiếu có quyền lấy những gì họ cần từ của cải của người khác… Theo bản chất của nó, tài sản riêng có một chiều kích xã hội dựa trên luật về mục đích chung của các của cải trần gian. Bất cứ khi nào khía cạnh xã hội bị lãng quên, quyền sở hữu thường có thể trở thành đối tượng của lòng tham và là nguồn gốc gây ra sự hỗn loạn nghiêm trọng.”[82] Xác tín này đã được thánh Phaolô VI nêu lại trong Thông điệp Populorum Progressio của ngài. Ở đó, ngài nói với chúng ta rằng không ai được tự cho mình quyền “chiếm đoạt hàng hóa dư thừa chỉ để dùng riêng cho mình khi những kẻ khác thiếu những thứ thiết yếu để sống”.[83] Trong diễn văn của ngài tại Liên Hiệp Quốc, Đức Phaolô VI đã phát biểu trong tư cách một người bênh vực các dân tộc nghèo [84] và ngài kêu gọi cộng đồng quốc tế xây dựng một thế giới của tình liên đới.

87. Với thánh Gioan Phaolô II, mối tương quan ưu tiên của Giáo hội với người nghèo được củng cố, cách riêng từ quan điểm giáo lý. Giáo huấn của ngài nhìn thấy trong việc lựa chọn người nghèo một “hình thức ưu tiên đặc biệt để thực thi bác ái Kitô giáo, điều được làm chứng bởi toàn thể truyền thống của Giáo hội”.[85] Trong Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis, ngài tiếp tục nói: “Hơn nữa, ngày nay, do chiều kích toàn cầu của vấn đề xã hội, tình yêu ưu tiên đối với người nghèo này, và những quyết định mà nó thúc đẩy nơi chúng ta, không thể không bao gồm vô số người đói khát, túng thiếu, người vô gia cư, những người không được chăm sóc y tế, và trên hết là những người không còn hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn. Không thể không xét đến sự tồn tại của những thực tế này. Làm ngơ chúng sẽ có nghĩa là trở nên giống như ‘người phú hộ’ giả vờ không biết đến anh Ladarô nằm ăn xin trước cổng nhà mình (x. Lc 16,19-31)”.[86] Giáo huấn của thánh Gioan Phaolô II về lao động cũng rất quan trọng để chúng ta xem xét vai trò tích cực của người nghèo trong công cuộc canh tân Giáo hội và xã hội, nhờ đó ta vứt bỏ một “não trạng cha chú” tự đóng khung trong việc đáp ứng chỉ những nhu cầu trước mắt của người nghèo. Trong Thông điệp Laborem Exercens, ngài thẳng thắn tuyên bố rằng “lao động của con người là chìa khóa, có lẽ là chìa khóa thiết yếu, cho toàn bộ vấn đề xã hội”.[87]

88. Giữa rất nhiều khủng hoảng đánh dấu sự khởi đầu thiên niên kỷ thứ ba, giáo huấn của Đức Bênêđictô XVI đã có một bước ngoặt chính trị rõ rệt hơn. Như trong Thông điệp Caritas in Veritate, ngài khẳng định rằng “chúng ta càng cố gắng bảo đảm một thiện ích chung tương ứng với nhu cầu thực tế của những người lân cận, thì chúng ta càng yêu thương họ một cách hiệu quả hơn”.[88] Hơn nữa, ngài nhận xét rằng “nạn đói không do bởi thiếu thốn vật chất cho bằng do bởi sự thiếu hụt các nguồn lực xã hội, trong đó quan trọng nhất là các nguồn lực thể chế. Nói cách khác, điều còn thiếu là một mạng lưới các thể chế kinh tế có khả năng bảo đảm sự tiếp cận thường xuyên với thực phẩm và nước uống đủ cho dinh dưỡng, đồng thời cũng có khả năng xử lý các nhu cầu thiết yếu cũng như các đòi hỏi khẩn cấp do các cuộc khủng hoảng lương thực thật sự, dù là do nguyên nhân tự nhiên hay do sự vô trách nhiệm chính trị, ở bình diện quốc gia và quốc tế.”[89]

89. Đức Giáo hoàng Phanxicô ghi nhận rằng trong những thập niên gần đây, bên cạnh giáo huấn của các Giám mục Rôma, các Hội đồng Giám mục quốc gia và khu vực đã ngày càng lên tiếng nhiều hơn. Ví dụ, ngài có thể đích thân chứng thực sự cam kết đặc biệt của hàng giám mục Mỹ La tinh trong việc xem xét lại mối tương quan của Giáo hội với người nghèo. Trong giai đoạn ngay sau Công đồng, gần như ở tất cả các quốc gia Mỹ La tinh, đã có một cảm thức mạnh mẽ rằng Giáo hội cần đồng hóa với người nghèo và cần tham gia tích cực vào việc bảo đảm tự do cho họ. Giáo hội được đánh động bởi con số đông đảo người nghèo đang chịu cảnh thất nghiệp, việc làm bấp bênh, lương bổng không tương xứng và điều kiện sống dưới mức tiêu chuẩn. Cái chết tuẫn đạo của thánh Oscar Romero, Tổng Giám mục San Salvador, là một chứng tá mạnh mẽ và một nguồn cảm hứng cho Giáo hội. Ngài đã đón nhận hoàn cảnh của đại đa số trong đoàn chiên của mình, và đặt họ làm trung tâm tầm nhìn mục vụ của mình. Các Hội nghị Giám mục Mỹ La tinh được tổ chức tại Medellín, Puebla, Santo Domingo và Aparecida cũng là những sự kiện đầy ý nghĩa đối với đời sống của toàn thể Giáo hội. Về phần mình, sau nhiều năm phục vụ tại Peru trong tư cách một thừa sai, tôi vô cùng biết ơn tiến trình phân định này của Giáo hội, mà Đức Phanxicô đã khôn ngoan nối kết với tiến trình của các Giáo hội địa phương khác, đặc biệt là các Giáo hội ở Nam bán cầu. Giờ đây, tôi muốn đề cập đến hai chủ đề cụ thể trong giáo huấn giám mục này.

Các cơ cấu tội lỗi tạo ra nghèo đói và bất bình đẳng cực độ

90. Tại Medellín, các giám mục đã tuyên bố ủng hộ sự ưu tiên lựa chọn người nghèo: “Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta, không chỉ yêu thương người nghèo, mà ‘Người vốn giàu có, đã trở nên nghèo khó.’ Người đã sống một cuộc đời nghèo khó, tập trung sứ mạng của mình vào việc rao giảng sự giải phóng cho họ, và thiết lập Giáo hội của Người như dấu chỉ của sự nghèo khó này giữa chúng ta… Cảnh nghèo mà rất nhiều anh chị em chúng ta phải chịu đựng đang kêu gào công lý, tình liên đới, chứng tá, sự dấn thân và những nỗ lực nhằm chấm dứt nó, để sứ mạng cứu độ mà Chúa Kitô giao phó có thể được hoàn thành trọn vẹn.”[90] Các giám mục đã tuyên bố mạnh mẽ rằng Giáo hội, để hoàn toàn trung thành với ơn gọi của mình, phải không chỉ chia sẻ hoàn cảnh của người nghèo, mà còn phải đứng về phía họ và tích cực hoạt động cho sự phát triển toàn diện của họ. Đứng trước tình trạng nghèo đói ngày càng trầm trọng ở Mỹ La tinh, Hội nghị Puebla đã xác nhận quyết định ở Medellín, ủng hộ sự lựa chọn người nghèo cách dứt khoát và đầy tính ngôn sứ, và mô tả các cơ cấu bất công là một “tội lỗi xã hội”.

91. Lòng bác ái có sức thay đổi thực tại; nó là một sức mạnh đích thực làm thay đổi lịch sử. Nó phải thúc đẩy và hướng dẫn mọi nỗ lực “giải quyết các nguyên nhân cơ cấu của nghèo đói” [91], và phải khẩn cấp làm điều đó. Tôi hy vọng chúng ta sẽ thấy ngày càng nhiều “chính trị gia có khả năng đối thoại chân thành và hiệu quả nhằm chữa lành những gốc rễ sâu xa nhất – chứ không chỉ là các mặt nổi – của những sự dữ trong thế giới chúng ta.”[92] Bởi vì “vấn đề là lắng nghe tiếng kêu của toàn thể các dân tộc, những dân tộc nghèo nhất trên trái đất.”[93]

92. Do đó, chúng ta phải tiếp tục lên án “chế độ độc tài của một nền kinh tế giết người”, và phải nhận ra rằng “trong khi thu nhập của một nhóm thiểu số đang tăng theo cấp số nhân, thì khoảng cách giữa đa số và sự thịnh vượng mà thiểu số may mắn được hưởng cũng tăng nhanh như vậy. Sự mất cân bằng này là hệ quả của các ý thức hệ bảo vệ sự tự trị tuyệt đối của thị trường và đầu cơ tài chính. Do đó, chúng bác bỏ quyền của các nhà nước – vốn có trách nhiệm cảnh giác vì thiện ích chung – trong việc thực thi bất kỳ hình thức kiểm soát nào. Một chế độ chuyên chế mới đang ra đời, vô hình và thường là ảo, đơn phương và không ngừng áp đặt các luật lệ và quy tắc của nó.”[94] Không thiếu các lý thuyết cố biện minh cho tình trạng hiện nay hoặc giải thích rằng tư duy kinh tế đòi chúng ta phải chờ đợi các lực thị trường vô hình giải quyết mọi thứ. Tuy nhiên, phẩm giá của mọi con người phải được tôn trọng hôm nay, chứ không phải ngày mai, và tình trạng nghèo cùng cực của tất cả những người bị tước đoạt phẩm giá cần phải luôn đè nặng trên lương tâm chúng ta.

93. Trong Thông điệp Dilexit Nos, Đức Giáo hoàng Phanxicô nhắc chúng ta rằng tội lỗi xã hội củng cố một “cơ cấu tội lỗi” trong xã hội, và thường đó là “một phần của tâm thức thống trị coi là bình thường hay hợp lý những gì chỉ là ích kỷ và thờ ơ. Điều này sẽ dẫn đến sự tha hóa xã hội.”[95] Khi đó, người ta sẽ thấy là bình thường việc phớt lờ người nghèo và sống như thể họ không tồn tại. Cũng vậy, dường như là hợp lý việc tổ chức nền kinh tế theo cách đòi hỏi quần chúng phải hy sinh để phục vụ nhu cầu của những người có quyền lực. Trong khi đó, người nghèo chỉ được hứa hẹn một vài “giọt” nhỏ xuống, cho đến khi cuộc khủng hoảng toàn cầu tiếp theo đưa mọi thứ trở lại vị trí cũ. Một hình thức tha hóa thực sự đang hiện hữu khi chúng ta giới hạn mình nơi những biện bạch lý thuyết thay vì tìm cách giải quyết các vấn đề cụ thể của những người đau khổ. Thánh Gioan Phaolô II đã nhận định rằng “một xã hội bị tha hóa nếu các hình thức tổ chức xã hội, việc sản xuất và tiêu dùng của nó gây khó khăn hơn cho việc trao hiến chính mình và tạo lập sự liên đới giữa người ta.”[96]

94. Chúng ta cần dấn thân nhiều hơn nữa để giải quyết các nguyên nhân mang tính cơ cấu của nghèo đói. Đây là một nhu cầu cấp thiết “không thể trì hoãn, không chỉ vì lý do thực dụng là tính cấp bách của nó đối với trật tự xã hội, mà còn vì xã hội cần được chữa trị một căn bệnh đang làm nó yếu nhược và suy sụp, là điều chắc chắn dẫn đến những khủng hoảng mới. Các dự án phúc lợi, đáp ứng một số nhu cầu cấp thiết, nên được coi chỉ là những giải pháp tạm thời.”[97] Tôi phải khẳng định một lần nữa rằng bất bình đẳng “là gốc rễ của các tệ nạn xã hội.”[98] Thật vậy, “ngày càng rõ ràng rằng trong thực tế, các quyền con người không bình đẳng cho tất cả mọi người.”[99]

95. Rõ ràng, “mô hình hiện nay, với sự nhấn mạnh đặt vào thành công và khả năng tự lực, dường như không ủng hộ việc đầu tư vào các cố gắng giúp đỡ những người chậm chạp, yếu đuối hoặc kém tài năng để họ tìm kiếm cơ hội trong cuộc sống.”[100] Những câu hỏi cứ quay lại chất vấn chúng ta. Phải chăng những người kém tài năng không phải là những con người? Phải chăng những người yếu đuối không có cùng phẩm giá như chúng ta? Phải chăng những người sinh ra với ít cơ hội hơn là những người kém giá trị hơn? Phải chăng họ nên giới hạn bản thân chỉ trong việc tồn tại? Giá trị của xã hội chúng ta, và tương lai của chính chúng ta, phụ thuộc vào cách ta trả lời những câu hỏi ấy. Hoặc chúng ta lấy lại phẩm giá đạo đức và tâm linh, hoặc chúng ta sẽ rơi xuống cống. Nếu chúng ta không dừng lại và xem xét vấn đề một cách nghiêm túc, chúng ta sẽ công khai hoặc lén lút tiếp tục “hợp pháp hóa mô hình phân phối hiện nay, trong đó một thiểu số tin rằng họ có quyền tiêu thụ theo cách không bao giờ có thể phổ cập hóa, bởi vì hành tinh này thậm chí còn không thể chứa được chất thải của việc tiêu thụ như vậy.”[101]

96. Một vấn đề về cơ cấu (vốn thực tế không thể được giải quyết từ trên cao, và cần được xử lý nhanh hết sức có thể) sẽ liên quan đến địa điểm, khu phố, nhà cửa và thành phố nơi người nghèo sinh sống. Tất cả chúng ta đều trân trọng vẻ đẹp của “những thành phố vượt qua được sự nghi ngờ nhau đến mức tê liệt, hội nhập những người khác biệt nhau và biến chính sự hội nhập này thành một yếu tố phát triển mới! Thật hấp dẫn biết bao những thành phố mà ngay cả trong thiết kế kiến ​​trúc của chúng, cũng tràn ngập những không gian kết nối, liên kết và ủng hộ việc nhìn nhận những người khác!”[102] Nhưng đồng thời, “chúng ta không thể không xem xét những tác động đến cuộc sống của người dân do sự suy thoái môi trường, do các mô hình phát triển hiện hành và do nền văn hóa vứt bỏ.”[103] Bởi vì “sự suy thoái của môi trường và xã hội gây ảnh hưởng đến những con người yếu thế nhất trên hành tinh.”[104]

97. Mọi thành viên của Dân Thiên Chúa đều có bổn phận phải lên tiếng, dù theo những cách khác nhau, để chỉ ra và tố cáo những vấn đề về cơ cấu như thế, ngay cả dù bị cho là ngốc nghếch hoặc ngây thơ. Những cơ cấu bất công cần được nhận ra và xóa bỏ bằng sức mạnh của lương tri, bằng việc thay đổi tư duy, và cả bằng việc xây dựng các chính sách hiệu quả để thay đổi xã hội – với sự hỗ trợ của khoa học và công nghệ. Không bao giờ được quên rằng sứ điệp Phúc Âm không chỉ liên quan đến mối tương quan cá nhân mỗi người với Chúa, mà còn liên quan đến một điều gì đó cao cả hơn: “Nước Thiên Chúa (x. Lc 4,43); đó là sứ điệp về việc yêu mến Thiên Chúa, Đấng ngự trị trong thế giới của chúng ta. Theo mức độ mà Ngài ngự trị trong chúng ta, đời sống xã hội sẽ là một khung cảnh của tình huynh đệ phổ quát, của công lý, hòa bình và phẩm giá. Do đó, cả lời rao giảng và đời sống Kitô giáo đều nhằm tác động đến xã hội. Chúng ta đang tìm kiếm Nước Thiên Chúa.”[105]

98. Cuối cùng, trong một văn kiện ban đầu không được đón nhận nồng nhiệt bởi mọi người, chúng ta tìm thấy một suy tư vẫn còn giá trị thời sự hôm nay: “Những người bảo vệ chính thuyết đôi khi bị cáo buộc là thụ động, dễ dãi, hoặc đồng lõa đáng trách liên quan đến những tình huống bất công không thể chấp nhận được, cũng như các chế độ chính trị duy trì chúng. Sự hoán cải tâm linh, tình yêu mãnh liệt đối với Thiên Chúa và tha nhân, lòng nhiệt thành với công lý và hòa bình, ý nghĩa Phúc Âm về người nghèo và sự nghèo khó, đó là những điều đòi hỏi tất cả mọi người, đặc biệt là các mục tử và những người có trách nhiệm. Mối quan tâm đến sự tinh tuyền của đức tin đòi hỏi phải đáp trả bằng chứng tá hữu hiệu trong việc phục vụ tha nhân, nhất là người nghèo và những người bị áp bức, theo một cách thức có ý nghĩa thần học và toàn diện.”[106]

Người nghèo là những chủ thể

99. Sức sống của Giáo hội hoàn vũ đã được làm phong phú thêm nhờ sự phân định của Hội nghị Aparecida, trong đó các giám mục Mỹ La tinh đã nêu rõ rằng việc Giáo hội ưu tiên lựa chọn người nghèo “được hàm chứa trong đức tin Kitô học vào Thiên Chúa, Đấng đã trở nên nghèo khó vì chúng ta, để làm cho chúng ta trở nên giàu có bằng sự nghèo khó của Người.”[107] Văn kiện Aparecida định vị sứ mạng của Giáo hội trong bối cảnh hiện nay của một thế giới toàn cầu hóa, được đánh dấu bởi những sự mất cân bằng mới và nghiêm trọng.[108] Trong Sứ điệp cuối cùng, các giám mục viết: “Những khác biệt sâu sắc giữa người giàu và người nghèo kêu gọi chúng ta làm việc với sự dấn thân nhiều hơn để trở thành những môn đệ có khả năng chia sẻ bàn tiệc sự sống, bàn tiệc của tất cả con cái Chúa Cha, một bàn tiệc mở ra và bao gồm, không ai bị loại trừ. Do đó, chúng tôi tái khẳng định sự lựa chọn ưu tiên và mang tính Phúc Âm của chúng tôi dành cho người nghèo.”[109]

100. Đồng thời, Văn kiện nói trên tiếp nối một chủ đề đã được thảo luận trong các Hội nghị Giám mục Mỹ La tinh trước đó, nhấn mạnh rằng cần phải xem các cộng đồng bị gạt ra ngoài lề như những chủ thể có khả năng kiến tạo nền văn hóa riêng của mình, chứ không phải như những đối tượng của việc bác ái mà người khác làm. Điều này có nghĩa rằng các cộng đồng này có quyền đón nhận Phúc Âm, cử hành và truyền thông đức tin của mình một cách phù hợp với các giá trị trong nền văn hóa của họ. Kinh nghiệm về nghèo đói giúp họ có khả năng nhận ra những khía cạnh của thực tại mà người khác không thể thấy; vì lý do này, xã hội cần lắng nghe họ. Điều tương tự cũng đúng với Giáo hội, bởi Giáo hội cũng nên nhìn nhận một cách tích cực việc thực hành đức tin “bình dân” của họ. Một đoạn rất hay trong Văn kiện Aparecida có thể giúp chúng ta suy ngẫm về điểm này và về cách đáp trả đúng đắn của chúng ta: “Chỉ có sự gần gũi làm cho chúng ta trở thành bạn hữu mới giúp chúng ta trân trọng sâu sắc các giá trị của người nghèo ngày nay, trân trọng những khát vọng chính đáng của họ, và cách sống đức tin của họ… Ngày này qua ngày khác, người nghèo trở thành tác nhân của việc loan báo Tin Mừng và việc thăng tiến con người toàn diện: họ giáo dục đức tin cho con cái, tham gia vào mối liên đới thường xuyên giữa người thân và hàng xóm, không ngừng tìm kiếm Thiên Chúa, và làm sống động cuộc hành hương của Giáo hội. Dưới ánh sáng Tin Mừng, chúng ta nhận ra phẩm giá lớn lao và giá trị thiêng thánh của họ trong mắt Chúa Kitô, Đấng đã sống nghèo như họ và bị loại trừ với họ. Dựa trên kinh nghiệm đức tin này, chúng ta sẽ chia sẻ với họ công việc bảo vệ các quyền của họ.”[110]

101. Tất cả những điều này gắn với một khía cạnh của sự lựa chọn người nghèo mà chúng ta phải luôn ghi nhớ, đó là nó đòi hỏi chúng ta phải có thái độ quan tâm đến người khác. “Sự quan tâm yêu thương này là khởi đầu của một mối quan tâm đích thực đối với con người của họ, điều này sẽ thôi thúc tôi tìm kiếm thiện ích cho họ. Nghĩa là, trân trọng người nghèo trong lòng tốt của họ, trong kinh nghiệm sống của họ, trong văn hóa của họ, và trong cách sống đức tin của họ. Tình yêu đích thực luôn có tính chiêm nghiệm, và nó cho phép chúng ta phục vụ người khác không phải vì nhu cầu hay vì hợm hĩnh, mà đúng hơn là vì họ đẹp hơn những vẻ bề ngoài… Chỉ trên cơ sở sự gần gũi thực sự và chân thành này, chúng ta mới có thể đồng hành đúng đắn với người nghèo trên con đường giải phóng của họ.”[111] Vì lý do này, tôi bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến tất cả những ai đã chọn sống giữa người nghèo, không chỉ thỉnh thoảng đến thăm họ, mà sống với họ như họ đang sống. Một quyết định như vậy nên được coi là một trong những hình thức cao nhất của đời sống Phúc Âm.

102. Trong ánh sáng này, rõ ràng là tất cả chúng ta phải “để mình được Phúc Âm hóa” [112] bởi người nghèo, và nhìn nhận “sự khôn ngoan bí nhiệm mà Thiên Chúa muốn chia sẻ với chúng ta thông qua họ.” [113] Lớn lên trong những hoàn cảnh bấp bênh, học cách sống còn trong những điều kiện khắc nghiệt nhất, tín thác vào Chúa với sự chắc chắn rằng không ai khác trân trọng mình, và giúp đỡ lẫn nhau trong những khoảnh khắc đen tối nhất, người nghèo đã học được nhiều điều mà họ cất giấu trong lòng. Những ai trong chúng ta chưa có những trải nghiệm tương tự về cách sống này chắc chắn có thể học được nhiều điều từ nguồn khôn ngoan là kinh nghiệm của người nghèo. Chỉ bằng cách đối chiếu những phàn nàn của chúng ta với những đau khổ và thiếu thốn của họ, chúng ta mới có thể kinh nghiệm một sự khiển trách có sức thách thức chúng ta phải đơn giản hóa lối sống của mình.

CHƯƠNG NĂM: MỘT THÁCH THỨC THƯỜNG HẰNG

103. Tôi đã chọn nhắc lại lịch sử lâu đời về sự chăm sóc của Giáo hội cho người nghèo và với người nghèo để làm rõ rằng đó luôn là một phần trung tâm trong đời sống của Giáo hội. Thật vậy, việc chăm sóc người nghèo là một phần trong Truyền thống vĩ đại của Giáo hội, như một ngọn hải đăng chiếu ánh sáng Tin Mừng để soi sáng tâm hồn và hướng dẫn các quyết định của các Kitô hữu trong mọi thời đại. Đó là lý do tại sao chúng ta phải cảm thấy có trách nhiệm mời gọi mọi người chia sẻ trong ánh sáng và sự sống có được từ việc nhận ra Chúa Kitô trên khuôn mặt của những người đau khổ và những người thiếu thốn. Tình yêu dành cho người nghèo là một yếu tố thiết yếu trong câu chuyện Thiên Chúa đối xử với chúng ta; nó xuất phát từ trái tim của Giáo hội như một lời kêu gọi liên tục trái tim của các tín hữu, cả cá nhân lẫn các cộng đoàn chúng ta. Là Thân thể Chúa Kitô, Giáo hội kinh nghiệm cuộc sống của người nghèo như chính “xác thịt” của mình, vì họ có một chỗ đặc biệt trong đoàn dân lữ hành của Thiên Chúa. Do đó, tình yêu đối với người nghèo – bất kể hình thức nghèo nào – là dấu ấn Phúc Âm của một Giáo hội trung thành với trái tim của Thiên Chúa. Thật vậy, một trong những ưu tiên của mọi phong trào canh tân trong Giáo hội luôn là mối quan tâm ưu tiên dành cho người nghèo. Theo nghĩa này, công việc của Giáo hội với người nghèo – xét về nguồn cảm hứng và về phương pháp – khác biệt so với công việc được thực hiện bởi bất kỳ tổ chức nhân đạo nào khác.

104. Không một Kitô hữu nào có thể xem người nghèo chỉ là một vấn đề xã hội; họ là một phần của “gia đình” chúng ta. Họ là “một trong chúng ta”. Mối tương quan của chúng ta với người nghèo cũng không thể bị giản lược thành chỉ một hoạt động hay chức năng nào đó trong Giáo hội. Theo cách diễn đạt của Văn kiện Aparecida, “chúng ta được yêu cầu dành thời gian cho người nghèo, dành cho họ sự quan tâm yêu thương, chú ý lắng nghe họ, sát cánh bên họ trong những lúc khó khăn, chọn sống với họ nhiều giờ, nhiều tuần hoặc nhiều năm, và cố gắng thay đổi hoàn cảnh của họ, bắt đầu từ họ. Chúng ta không được quên rằng đây chính là điều Chúa Giêsu đã đề nghị trong hành động và trong lời nói của Người.”[114]

Một lần nữa, Người Samari Nhân Hậu

105. Nền văn hóa thống trị vào đầu thiên niên kỷ này muốn chúng ta bỏ mặc người nghèo cho số phận của họ và coi họ không đáng được quan tâm, chứ đừng nói đến việc chúng ta tôn trọng họ. Đức Thánh Cha Phanxicô, trong Thông điệp Fratelli Tutti, đã mời gọi chúng ta suy ngẫm về dụ ngôn Người Samari Nhân Hậu (x. Lc 10,25-37), dụ ngôn trình bày những phản ứng khác nhau của những người chứng kiến ​​cảnh một người bị thương nằm trên đường. Chỉ có Người Samari Nhân Hậu ấy mới dừng lại và chăm sóc nạn nhân. Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp tục hỏi mỗi người chúng ta: “Bạn thấy mình là ai trong số những người này? Câu hỏi này, tuy vỗ mặt, nhưng rất trực tiếp và sâu sắc. Bạn giống với nhân vật nào trong số đó? Chúng ta cần thừa nhận rằng chúng ta luôn bị cám dỗ bỏ mặc người khác, đặc biệt là những người yếu đuối. Chúng ta hãy thừa nhận rằng, bất chấp tất cả những tiến bộ mà mình đã đạt được, chúng ta vẫn còn “mù chữ” trong khả năng đồng hành, chăm sóc và hỗ trợ những thành viên yếu đuối và dễ bị tổn thương nhất trong các xã hội phát triển của chúng ta. Chúng ta đã quen với việc nhìn sang hướng khác, bỏ đi qua và phớt lờ các hoàn cảnh cho đến khi chúng ảnh hưởng trực tiếp đến mình.”[115]

106. Thật quan trọng việc chúng ta phải nhận ra rằng câu chuyện về Người Samari Nhân Hậu vẫn còn mang tính thời sự ngay cả ngày nay. “Nếu tôi gặp một người ngủ ngoài trời vào một đêm lạnh giá, tôi có thể coi người ấy là một sự phiền toái, một kẻ lười biếng, một chướng ngại vật trên đường mình đi, một cảnh tượng đáng lo ngại, một vấn đề mà các chính trị gia phải giải quyết, hay thậm chí là một mảnh rác thải bừa bãi nơi công cộng. Hoặc tôi có thể đáp lại bằng đức tin và lòng bác ái, và nhìn thấy ở người này một con người có phẩm giá giống như tôi, một thụ tạo được Chúa Cha yêu thương vô hạn, một hình ảnh của Thiên Chúa, một người anh chị em được Chúa Giêsu Kitô cứu chuộc. Đó chính là ý nghĩa của một Kitô hữu! Liệu sự thánh thiện có thể được hiểu theo cách nào đó tách rời khỏi sự nhìn nhận sống động này về phẩm giá của mỗi con người không?” [116] Người Samari Nhân Hậu ấy đã làm gì?

107. Những câu hỏi này càng trở nên cấp bách hơn trong bối cảnh một khiếm khuyết nghiêm trọng hiện hữu trong đời sống xã hội của chúng ta, cả trong các cộng đoàn Kitô hữu của chúng ta. Rất nhiều hình thức thờ ơ mà chúng ta thấy xung quanh thực ra là “những dấu hiệu của một lối sống đang lan rộng theo những cách thức tinh vi và đa dạng. Hơn nữa, vì chúng ta loay hoay với những nhu cầu riêng của mình, việc nhìn thấy một người đang đau khổ khiến chúng ta bối rối. Nó khiến chúng ta bất an, vì chúng ta không có thời gian để lãng phí cho những vấn đề của người khác. Đây là triệu chứng của một xã hội bệnh hoạn. Một xã hội tìm kiếm sự thịnh vượng nhưng lại quay lưng lại với đau khổ. Xin cho chúng ta đừng sa xuống vực sâu như vậy! Chúng ta hãy nhìn vào tấm gương của Người Samari Nhân Hậu.” [117] Những lời cuối cùng của dụ ngôn trong Tin Mừng – “hãy đi và làm như vậy” (Lc 10,37) – là một mệnh lệnh mà mỗi Kitô hữu phải ghi nhớ hàng ngày.

Một thách đố mà Giáo hội ngày nay không thể tránh né

108. Vào một thời điểm đặc biệt quan trọng trong lịch sử Giáo hội tại Rôma, khi các thể chế đế quốc đang sụp đổ dưới áp lực của những cuộc xâm lược của quân man di, thánh giáo hoàng Grêgôriô Cả cảm thấy cần phải nhắc nhở các tín hữu: “Giây phút nào chúng ta cũng có thể tìm thấy một Ladarô nếu chúng ta chịu tìm kiếm, và mỗi ngày, ngay cả khi không tìm kiếm, chúng ta vẫn thấy một người tại cửa nhà mình. Bây giờ những người ăn xin vây quanh chúng ta, cầu xin bố thí; sau này họ sẽ là những người bênh vực chúng ta… Vì vậy, đừng bỏ lỡ cơ hội làm các việc bác ái; đừng tích trữ những thứ tốt đẹp bạn sở hữu mà không sử dụng.”[118] Thánh Grêgôriô đã can đảm lên án các dạng định kiến ​​đương thời đối với người nghèo, bao gồm cả niềm tin rằng họ phải chịu trách nhiệm về hoàn cảnh của họ: “Bất cứ khi nào bạn thấy người nghèo làm điều gì đó đáng chê trách, đừng khinh thường hoặc mất tin tưởng nơi họ, vì ngọn lửa của sự nghèo đói có lẽ đang thanh tẩy các hành động tội lỗi của họ, dù chúng nhỏ bé đến đâu.”[119] Rất thường, sự sung túc của mình có thể làm ta mù quáng trước nhu cầu của người khác, và thậm chí khiến chúng ta nghĩ rằng hạnh phúc và sự viên mãn của ta chỉ phụ thuộc vào chính mình mà thôi, tách biệt hẳn khỏi người khác. Trong những trường hợp như vậy, người nghèo có thể là những người thầy thầm lặng cho chúng ta, giúp ta ý thức được sự kiêu ngạo của mình và gieo vào chúng ta một tinh thần khiêm nhường đúng đắn.

109. Mặc dù đúng là người giàu chăm sóc người nghèo, nhưng điều ngược lại cũng đúng không kém. Đây là một sự thật đáng lưu ý được toàn bộ truyền thống Kitô giáo xác nhận. Cuộc sống có thể được thay đổi thực sự nhờ việc nhìn nhận rằng người nghèo có thể dạy chúng ta rất nhiều về Phúc Âm và những đòi hỏi của Phúc Âm. Bằng chứng tá thầm lặng của mình, họ giúp chúng ta đối mặt với sự bấp bênh của đời sống. Ví dụ, những người cao tuổi, với sự yếu đuối về thể chất, nhắc nhở chúng ta về sự mong manh của chính mình, ngay cả khi chúng ta cố gắng che giấu nó đằng sau sự sung túc và dáng vẻ bên ngoài của mình. Người nghèo cũng nhắc nhở chúng ta rằng thái độ hung hăng hống hách thường có nơi chúng ta khi đối mặt với những khó khăn của cuộc sống là điều thật ngớ ngẩn. Họ nhắc chúng ta rằng cuộc sống tưởng như an toàn và chắc chắn của chúng ta có thể rất chông chênh và trống rỗng. Ở đây, một lần nữa, thánh Grêgôriô Cả có nhiều điều để nhắn nhủ chúng ta: “Đừng ai tự cho mình là an toàn khi nói rằng: ‘Tôi không ăn cắp của người khác, bởi tôi chỉ hưởng thụ những gì thuộc về mình thôi mà.’ Người phú hộ kia không bị trừng phạt vì đã lấy của người khác, nhưng bởi vì trong khi sở hữu khối tài sản to lớn như vậy, ông ta đã hóa ra nghèo nàn trong lòng. Đây thực sự là lý do khiến ông bị kết án xuống hỏa ngục: trong sự sung túc của mình, ông ta không còn ý thức về công lý; của cải mà ông nhận được khiến ông kiêu ngạo và làm cho ông mất hết lòng trắc ẩn.”[120]

110. Đối với các Kitô hữu chúng ta, vấn đề người nghèo dẫn ta đến chính cốt lõi của đức tin. Thánh Gioan Phaolô II dạy rằng việc ưu tiên lựa chọn người nghèo, tức là tình yêu thương của Giáo hội dành cho người nghèo, “thật thiết yếu đối với Giáo hội và là một phần trong truyền thống liên tục của Giáo hội, thúc đẩy Giáo hội quan tâm đến một thế giới mà nghèo đói đang đe dọa gia tăng nhanh chóng bất chấp những tiến bộ về kinh tế và công nghệ.”[121] Đối với các Kitô hữu, người nghèo không phải là một phạm trù xã hội học, mà là chính “xác thịt” của Chúa Kitô. Chỉ tuyên xưng giáo lý về sự Nhập Thể của Thiên Chúa một cách chung chung thì chưa đủ. Để thực sự bước vào mầu nhiệm cao cả này, chúng ta cần hiểu rõ rằng Chúa đã mặc lấy một xác phàm đói khát, đau yếu và tù đày. “Một Giáo hội nghèo vì người nghèo, điều này bắt đầu bằng việc chạm tới xác thân của Chúa Kitô. Nếu chúng ta chạm tới xác thân của Chúa Kitô, chúng ta bắt đầu hiểu được một điều gì đó, hiểu được sự nghèo khó này, sự nghèo khó của Chúa, thực sự là gì; và điều này không hề dễ dàng.”[122]

111. Tự bản chất, Giáo hội liên đới với người nghèo, những người bị loại trừ, những người bị gạt ra bên lề, và tất cả những ai bị xã hội bỏ rơi. Người nghèo là trung tâm của Giáo hội bởi vì “lòng tin của chúng ta vào Chúa Kitô – Đấng đã trở nên nghèo khó, Đấng luôn gần gũi với người nghèo và những người bị bỏ rơi – là nền tảng cho mối quan tâm của chúng ta đối với sự phát triển toàn diện của những thành viên bị lãng quên nhất trong xã hội.”[123] Trong thâm tâm mình, chúng ta cảm nhận “sự cần thiết phải lắng nghe lời kêu gọi này, phát xuất từ hoạt động giải phóng của ân sủng bên trong mỗi người chúng ta, và vì vậy, đây không phải là một sứ mệnh chỉ dành riêng cho một số ít người.”[124]

112. Đôi khi, xuất hiện các phong trào hoặc các nhóm Kitô hữu ít quan tâm hoặc không quan tâm gì đến thiện ích chung của xã hội và nhất là việc bảo vệ và thăng tiến những thành viên dễ bị tổn thương và thiệt thòi nhất. Tuy nhiên, chúng ta không bao giờ được quên rằng tôn giáo, đặc biệt là Kitô giáo, không thể bị giới hạn trong cảnh vực riêng tư, như thể các tín đồ không có bổn phận lên tiếng về các vấn đề ảnh hưởng đến xã hội dân sự và các vấn đề liên quan đến các thành viên của nó.[125]

113. Thật vậy, “bất kỳ cộng đoàn Giáo hội nào, nếu nghĩ rằng mình có thể thoải mái đi theo con đường riêng của mình mà không cần có sự quan tâm sáng tạo và sự hợp tác hiệu quả để giúp người nghèo sống với phẩm giá, và để vươn ra tới mọi người, thì cộng đoàn ấy sẽ có nguy cơ sụp đổ, dù có ăn nói về các vấn đề xã hội hay phê phán chính phủ đến mấy đi nữa. Nó sẽ dễ dàng trôi dạt vào một tính thế tục thiêng liêng được ngụy trang bằng các hoạt động tôn giáo, các cuộc họp hành không hiệu quả và những ngôn từ trống rỗng.”[126]

114. Vấn đề cũng không duy chỉ là cung cấp hỗ trợ phúc lợi và liệu sao để bảo đảm công bằng xã hội. Các Kitô hữu cũng cần nhận thức một dạng thiếu nhất quán khác trong cách họ đối xử với người nghèo. Trong thực tế, “sự phân biệt đối xử tồi tệ nhất mà người nghèo phải chịu là thiếu sự chăm sóc tâm linh… Việc chúng ta ưu tiên chọn lựa người nghèo phải trước hết chuyển thành một sự ưu tiên quan tâm chăm sóc về tôn giáo.”[127] Thế nhưng, sự quan tâm thiêng liêng này đối với người nghèo đang bị đặt vấn đề, ngay cả trong giới Kitô hữu, bởi một số định kiến ​​phát sinh từ việc chúng ta thấy rằng nhắm mắt làm ngơ trước người nghèo thì dễ dàng hơn. Có những người nói: “Nhiệm vụ của chúng ta là cầu nguyện và giảng dạy giáo lý lành mạnh.” Tách biệt khía cạnh tôn giáo này với sự phát triển toàn diện, họ thậm chí còn nói rằng việc chăm sóc người nghèo là trách nhiệm của chính phủ, hoặc nói rằng tốt hơn không nên giúp người nghèo thoát khỏi cảnh nghèo mà chỉ cần dạy họ cách làm việc. Đôi khi, các dữ liệu mạo danh khoa học được viện dẫn để củng cố cho tuyên bố rằng một nền kinh tế thị trường tự do sẽ tự động giải quyết vấn đề nghèo đói. Hoặc thậm chí cho rằng chúng ta nên chọn làm việc mục vụ với cái gọi là giới tinh hoa, viện lẽ rằng thay vì lãng phí thời gian cho người nghèo, tốt hơn nên chăm sóc người giàu, những người có ảnh hưởng và những chuyên gia, để với sự giúp đỡ của họ, các giải pháp thực sự có thể được tìm ra và Giáo hội cảm thấy an ổn. Thật không khó nhận ra tính thế tục đằng sau những lập trường này, điều sẽ dẫn chúng ta đến chỗ nhìn thực tế qua lăng kính hời hợt, thiếu ánh sáng từ trên cao, và vun đắp những mối tương quan mang lại cho mình sự an toàn và vị thế đặc quyền.

Việc bố thí ngày nay

115. Tôi muốn kết thúc bằng cách đề cập về việc bố thí, điều mà ngày nay không nhận được sự quan tâm tích cực lắm, ngay cả giữa các tín hữu. Không chỉ là nó hiếm khi được thực hành, mà đôi khi còn bị coi thường. Tôi xin nhắc lại một lần nữa rằng cách thức quan trọng nhất để giúp đỡ những người yếu thế là hỗ trợ họ tìm được một công việc tốt, để họ có thể sống một cuộc sống có phẩm giá hơn bằng cách phát triển khả năng của mình và đóng góp tương xứng. Theo nghĩa này, “không có việc làm không chỉ có nghĩa là không có nguồn thu nhập ổn định. Có việc làm cũng vậy, nhưng còn hơn thế nữa. Nhờ lao động, chúng ta trở nên một nhân vị trọn vẹn hơn, nhân tính của chúng ta triển nở, người trẻ chỉ trở nên trưởng thành nhờ lao động. Học thuyết xã hội của Giáo hội luôn coi lao động của con người là sự tham gia vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa, công trình này vẫn tiếp diễn mỗi ngày, cũng nhờ vào bàn tay, khối óc và trái tim của những người lao động.” [128] Mặt khác, khi điều này không thể thực hiện được, chúng ta không thể liều lĩnh bỏ mặc người khác với số phận thiếu thốn những nhu cầu thiết yếu cho một cuộc sống có phẩm giá. Do đó, việc bố thí, trong thời điểm hiện tại, vẫn là một phương tiện cần thiết để tiếp xúc, gặp gỡ và đồng cảm với những người kém may mắn hơn.

116. Những ai được thúc đẩy bởi lòng bác ái đích thực đều hiểu rõ rằng việc bố thí không miễn trừ trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền, không xóa bỏ nghĩa vụ chăm sóc người nghèo của các cơ quan chính phủ, cũng không làm giảm bớt những nỗ lực chính đáng nhằm đảm bảo công lý. Việc bố thí ít nhất cũng cho chúng ta cơ hội dừng lại trước người nghèo, nhìn vào mắt họ, chạm vào họ và chia sẻ một phần nào đó của bản thân với họ. Trong mọi trường hợp, việc bố thí, dù khiêm tốn đến đâu, cũng mang đến một chút tấm lòng (pietas) vào một xã hội vốn in dấu sự cuồng nhiệt theo đuổi lợi ích cá nhân. Theo lời của sách Châm ngôn: “Phúc cho người quảng đại bố thí, vì họ chia cơm sẻ bánh cho người nghèo” (22,9).

117. Cả Cựu Ước và Tân Ước đều chứa đựng những bài thánh ca chân thực ca ngợi việc bố thí: “Hãy kiên nhẫn với người bất hạnh, đừng để họ chờ đợi sự bố thí của con… Hãy tích trữ của bố thí trong kho tàng của con, và nó sẽ cứu con khỏi mọi tai ương” (Hc 29,8,12). Chính Chúa Giêsu nói thêm: “Hãy bán tài sản của mình mà bố thí. Hãy sắm cho mình những túi tiền không bao giờ cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, và mối mọt không làm hư nát” (Lc 12,33).

118. Thánh Gioan Kim Khẩu nổi tiếng với câu nói: “Việc bố thí là đôi cánh của lời cầu nguyện. Nếu bạn không trao đôi cánh cho lời cầu nguyện của mình, nó sẽ khó mà bay lên được.”[129] Cũng trong tinh thần đó, thánh Gregory thành Nazianzus đã kết thúc một trong những diễn từ nổi tiếng của mình bằng những lời này: “Hỡi các tôi tớ của Chúa Kitô, là anh em và đồng thừa kế của Người, nếu các bạn nghĩ rằng tôi có điều gì muốn nói, chúng ta hãy viếng thăm Chúa Kitô bất cứ khi nào có thể; chúng ta hãy chăm sóc Người, cho Người ăn, cho Người mặc, chào đón Người, tôn kính Người, không chỉ trong một bữa ăn như một số người đã làm, hay bằng cách xức dầu cho Người như Maria đã làm, hoặc chỉ bằng cách cho Người mượn ngôi mộ, như Giuse thành Arimathea, hay bằng cách sắp xếp việc chôn cất Người, như Nicôđêmô, người đã yêu Chúa Kitô một cách nửa vời, hay bằng cách dâng cho Người vàng, nhũ hương và mộc dược, như các nhà thông thái trước tất cả những người kia. Chúa của tất cả chúng ta đòi hỏi lòng thương xót, chứ không phải hy lễ… Vậy chúng ta hãy tỏ lòng thương xót Người nơi những người nghèo… để khi chúng ta rời khỏi thế giới này, họ có thể đón nhận chúng ta vào nơi ở vĩnh cửu.”[130]

119. Tình yêu và những niềm xác tín thâm sâu nhất của chúng ta cần được không ngừng vun xới, và chúng ta làm như thế qua các hành động cụ thể của mình. Việc cứ loay hoay với những ý tưởng và lý thuyết, trong khi không thể hiện chúng qua các hành động bác ái thường xuyên và thiết thực, cuối cùng sẽ làm suy yếu và tàn lụi ngay cả những hy vọng và những cảm hứng được nâng niu nhất của chúng ta. Chính vì lý do này, các Kitô hữu chúng ta không được từ bỏ việc bố thí. Việc này có thể được thực hiện theo nhiều cách khác nhau, và chắc chắn ta muốn làm theo cách hiệu quả nhất, nhưng nó phải được tiếp tục làm. Ít nhất thì làm một điều gì đó vẫn tốt hơn là không làm gì cả. Dù dưới bất kỳ hình thức nào, việc bố thí sẽ chạm đến và làm mềm trái tim chai đá của chúng ta. Nó sẽ không giải quyết được vấn đề nghèo đói trên thế giới, nhưng nó vẫn phải được làm, với trí tuệ, với sự chuyên cần và trách nhiệm xã hội. Về phần mình, chúng ta cần bố thí như một cách để vươn ra và chạm đến xác thịt khốn khổ của người nghèo.

120. Tình yêu Kitô giáo xô đổ mọi rào cản, mang những người xa cách lại gần nhau, kết nối những người xa lạ và hòa giải kẻ thù. Nó vượt qua những vực thẳm mà con người không thể vượt qua, và nó thâm nhập vào những khe kín ẩn nhất của xã hội. Tự bản chất, tình yêu Kitô giáo có tính ngôn sứ: nó thực hiện những phép lạ và nó không biết các giới hạn. Nó biến những điều tưởng chừng như không thể thành có thể. Tình yêu tiên vàn là một cách nhìn cuộc sống và là một cách sống. Một Giáo hội không đặt ra giới hạn cho tình yêu, không biết đến kẻ thù nào để chiến đấu, nhưng chỉ biết yêu thương con người, đó là Giáo hội mà thế giới hôm nay đang cần.

121. Qua công việc của anh chị em, qua những nỗ lực của anh chị em nhằm thay đổi các cơ cấu xã hội bất công, hay qua cử chỉ gần gũi và hỗ trợ chân thành, giản dị của anh chị em, người nghèo sẽ nhận ra rằng lời này của Chúa Giêsu được ngỏ riêng với từng người trong họ: “Ta đã yêu thương ngươi” (Kh 3,9).

Ban hành tại Rôma, Đền thờ Thánh Phêrô, ngày 4 tháng 10, Lễ kính thánh Phanxicô Assisi, năm 2025, năm đầu tiên trong triều đại Giáo hoàng của tôi.

Giáo hoàng Lêô XVI

Chú thích

[1] Phanxicô, Thông điệp Dilexit Nos (24.10.2024), 170: AAS 116 (2024), 1422.

[2] Ibid ., 171: AAS 116 (2024), 1422-1423.

[3] Phanxicô, Tông huấn Gaudete et Exsultate (19.3.2018), 96: AAS 110 (2018), 1137.

[4] Phanxicô, Tiếp kiến các Đại diện Truyền thông (16.3.2013): AAS 105 (2013), 381.

[5] J. Bergoglio – A. Skorka , Dưới đất cũng như trên trời, Buenos Aires 2013, 214.

[6] Phaolô VI, Bài giảng Thánh lễ tại Khóa họp Chung cuối cùng của Công đồng Vatican II (7.12.1965): AAS 58 (1966), 55-56.

[7] Cf. Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium (24.11.2013), 187: AAS 105 (2013), 1098.

[8] Ibid., 212: AAS 105 (2013), 1108.

[9] Phanxicô, Thông điệp Fratelli Tutti (3.10.2020), 23: AAS 112 (2020), 977.

[10] Ibid., 21: AAS 112 (2020), 976.

[11] Hội đồng Cộng đồng Châu Âu, Quyết nghị (85/8/EEC) về Hành động Cụ thể của Cộng đồng Chống Nạn Nghèo Đói (19.12.1984), Art. 1(2): Tập san chính thức của Cộng đồng Châu Âu, No. L 2/24.

[12] Cf. Gioan Phaolô II, Giáo lý (27.10.1999): L’Osservatore Romano, 28.10.1999, 4.

[13] Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium (24.11.2013), 197: AAS 105 (2013), 1102.

[14] Cf. Phanxicô, Sứ điệp cho Ngày Thế giới Người Nghèo Lần thứ 5 (13.6.2021), 3: AAS 113 (2021), 691: “Chúa Giêsu không chỉ ở bên người nghèo, Người chia sẻ số phận của họ. Đây là một bài học đầy ấn tượng cho các môn đệ Người mọi thời.”

[15] Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium (24.11.2013), 186: AAS 105 (2013), 1098.

[16] Phanxicô, Tông huấn Gaudete et Exsultate (19.3.2018), 95: AAS 110 (2018), 1137.

[17] Ibid ., 97: AAS 110 (2018), 1137.

[18] Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium (24.11. 2013), 194: AAS 105 (2013), 1101.

[19] Phanxicô, Tiếp kiến các Đại diện Truyền thông (16.3.2013): AAS 105 (2013), 381.

[20] Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 8.

[21] Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium (24.11.2013), 48: AAS 105 (2013), 1040.

[22] Trong chương này, một số trong những chứng nhân này được nêu lên. Không thể nêu hết được, nhưng đúng hơn muốn cho thấy rằng việc chăm sóc người nghèo luôn là đặc trưng sự hiện diện của Giáo hội trong thế giới. Để có suy tư sâu hơn, xin đọc quyển sách ‘V. Paglia, Storia della povertà, Milan 2014’.

[23] Cf. Ambrosiô, De officiIs ministrorum I, cap. 41, 205-206: CCSL 15, Turnhout 2000, 76-77; II, cap. 28, 140-143: CCSL 15, 148-149.

[24] Ibid., II, cap. 28, 140: CCSL 15, 148.

[25] Ibid.

[26] Ibid., II, cap. 28, 142: CCSL 15, 148.

[27] Inhaxiô thành Antiokia, Epistula ad Smyrnaeos, 6, 2: SC 10bis, ParIs 2007, 136-138.

[28] Polycarpô, Epistula ad Philippenses, 6, 1: SC 10bis, 186.

[29] Justinô, Apologia prima, 67, 6-7: SC 507, ParIs 2006, 310.

[30] Gioan Kim Khẩu, Homiliae in Matthaeum, 50, 3: PG 58, ParIs 1862, 508.

[31] Ibid. 50, 4: PG 58, 509.

[32] Gioan Kim Khẩu, Homilia in Epistula ad Hebraeos, 11, 3 : PG 63, ParIs 1862, 94.

[33] Gioan Kim Khẩu, Homilia II De Lazaro, 6: PG 48, ParIs 1862, 992.

[34] Ambrosiô, De Nabuthae, 12, 53: CSEL 32/2, Prague-Vienna-Leipzig 1897, 498.

[35] Augustinô, Enarrationes in Psalmos, 125, 12: CSEL 95/3, Vienna 2001, 181.

[36] Augustinô, Sermo LXXXVI, 5: CCSL 41Ab, Turnhout 2019, 411-412.

[37] Pseudo-Augustinô, Sermo CCCLXXXVIII, 2: PL 39, ParIs 1862, 1700.

[38] Cyprianô, De mortalitate, 16: CCSL 3A, Turnhout 1976, 25.

[39] Phanxicô, Sứ điệp cho Ngày Thế giới Bệnh nhân Lần thứ 30 (10.12.2021), 3: AAS 114 (2022), 51.

[40] Camillus de Lellis, Qui luật Dòng Tác viên Phục vụ Bệnh nhân, 27: M. Vanti (ed.), Scritti di San Camillo de Lellis, Milan 1965, 67.

[41] Louise de Marillac, Thư gửi các Chị Claudia Carré và Maria Gaudoin (28.11.1657): E. Charpy (ed.), Thánh Louise de Marillac. Écrits, ParIs 1983, 576.

[42] Basiliô Cả, Regulae fusius tractatae, 37, 1: PG 31, ParIs 1857, 1009 C-D.

[43] Tu luật Thánh Biển Đức, 53, 15: SC 182, ParIs 1972, 614.

[44] Gioan Cassianô, Collationes, XIV, 10: CSEL 13, Vienna 2004, 410.

[45] Biển Đức XVI, Giáo lý (21.10.2009): L’Osservatore Romano, 22.10.2009, 1.

[46] Cf. Innocent III, Bull Operante divinae dispositionIs – Primitive Rule of the Trinitarians (17.12.1198), 2: J.L. Aurrecoechea – A. Moldón (eds.), Fuentes históricas de la Orden Trinitaria (s. XII-XV), Córdoba 2003, 6: “Mọi sự, dù đến từ nguồn hợp pháp nào, các anh em phải chia thành ba phần bằng nhau. Nếu hai phần là đủ, thì việc làm phúc phải được thực hiện từ đó, cũng dự liệu chút đỉnh cần thiết cho các anh em… Phần thứ ba sẽ được giữ lại để chuộc những người bị giam giữ vì tin vào Đức Kitô.”

[47] Cf. Hiến pháp Dòng Mercedarian, n. 14: Orden de la Bienaventurada Virgen María de la Merced, Regla y Constituciones, Rome 2014, 53: “Để chu toàn sứ mạng này, được đức ái thúc đẩy, chúng ta thánh hiến chính mình cho Thiên Chúa với một lời khấn đặc biệt, gọi là Cứu Chuộc, qua đó chúng ta hứa dâng sự sống mình, nếu cần, như Đức Kitô đã hiến mình cho chúng ta, để cứu các Kitô hữu trong nguy cơ đánh mất đức tin liên quan đến những hình thức nô lệ mới.”

[48] Cf. Thánh Gioan Baotixita Conception, La regla de la Orden de la Santísima Trinidad, XX, 1: BAC Maior 60, Madrid, 1999, 90: “Ở đây, người nghèo và các tù nhân giống như Đức Kitô, họ chịu những đau khổ của đời này… Dòng Chúa Ba Ngôi qui tụ họ và mời gọi họ đến uống nước của Đấng Cứu Độ, nghĩa là, nếu Đức Kitô treo trên thập giá là sự cứu chuộc và cứu độ cho con người, Dòng nhận sự cứu chuộc này và muốn phân phát cho người nghèo và giải cứu các tù nhân.”

[49] Cf. Thánh Gioan Baotixita Conception, El recogimiento interior, XL, 4: BAC Maior 48, Madrid 1995, 689: “Ý chí tự do làm cho người ta tự do và cai quản mọi loài thụ tạo, nhưng biết bao người dùng nó để trở thành nô lệ và tù nhân của sự dữ, bị giam cầm và bị xiềng xích bời đam mê và dục vọng của mình”.

[50] Phanxicô, Sứ điệp cho Ngày Hòa bình Thế giới Lần thứ 48 (8.12.2014), 3: AAS 107 (2015), 69.

[51] Phanxicô, Gặp gỡ các cảnh sát trại giam, những người bị giam giữ và các tình nguyện viên (Verona, 18.5.2024): AAS 116 (2024), 766.

[52] Honorius III, Bull Solet annuere – Regula bullata (29.11.1223), chap. VI: SC 285, ParIs 1981, 192.

[53] Cf. Gregory IX, Bull Sicut manifestum est (17 September 1228), 7: SC 325, ParIs 1985, 200: “Sicut igitur supplicastis, altissimae paupertatIs propositum vestrum favore apostolico roboramus, auctoritate vobIs praesentium indulgentes, ut recipere possessiones a nullo compelli possitis.”

[54] Cf. S.C. Tugwell, (ed.), Early Dominicans. Tuyển tập, Mahwah 1982, 16-19.

[55] Thomas of Celano, Vita Secondapars prima, cap. IV, 8: AnalFranc, 10, Florence 1941, 135.

[56] Phanxicô, Diễn từ sau chuyến thăm mộ Don Lorenzo Milani, (Barbiana, 20.6.2017), 2: AAS 109 (2017), 745.

[57] Gioan Phaolô II, Diễn từ cho các Tham dự viên Tổng Công nghị  ( Piarists) (5.7.1997), 2: L’Osservatore Romano, 6.7.1997, 5.

[58] Ibid.

[59] Gioan Phaolô II, Bài giảng Thánh lễ Tuyên thánh (18.4.1999): AAS 91 (1999), 930.

[60] Cf. Gioan Phaolô II, Thư Iuvenum PatrIs (31.1.1988), 9: AAS 80 (1988), 976.

[61] Cf. Phanxicô, Diễn từ cho các Tham dự viên Tổng Công nghị… (Rosminians) (1.10.2018): L’Osservatore Romano, 1-2.10.2018, 7.

[62] Phanxicô, Bài giảng Thánh lễ Tuyên thánh (9.10.2022): AAS 114 (2022), 1338.

[63] Gioan Phaolô II, Sứ điệp cho Dòng Các Nữ tu Thừa sai Thánh Tâm (31.5.2000), 3: L’Osservatore Romano, 16.7.2000, 5.

[64] Cf. Piô XII, Papal Brief Superior Iam Aetate (8.9.1950): AAS 43 (1951), 455-456.

[65] Phanxicô, Sứ điệp cho Ngày Thế giới Di dân và Tị nạn Lần thứ 105 (27.5.2019): AAS 111 (2019), 911.

[66] Phanxicô, Message for the 100th World Day of Migrants and Refugees (8.2013): AAS 105 (2013), 930.

[67] Têrêsa Calcutta, Diễn từ dịp nhận giải Nobel Hòa Bình (Oslo, 10.12.1979): Yêu cho tới đớn đau, Lyon 2017, 19-20.

[68] Gioan Phaolô II, Diễn từ cho Những người hành hương đến Rôma dịp phong Chân phước Mẹ Têrêsa (20.10.2003), 3: L’Osservatore Romano, 20-21.10.2003, 10.

[69] Phanxicô, Bài giảng Thánh lễ Tuyên thánh (13.10.2019): AAS 111 (2019), 1712.

[70] Gioan Phaolô II, Tông thư Novo Millennio Ineunte (6 January 2001), 49: AAS 93 (2001), 302.

[71] Phanxicô, Tông huấn Christus Vivit (25.3.2019), 231: AAS 111 (2019), 458.

[72] Phanxicô, Diễn từ cho Các Tham dự viên Hội nghị Thế giới Các Phong trào Đại chúng (28.10.2014): AAS 106 (2014), 851-852.

[73] Ibid .AAS 106 (2014), 859.

[74] Phanxicô, Diễn từ cho Các Tham dự viên Hội nghị Thế giới Các Phong trào Đại chúng (5.11.2016): L’Osservatore Romano, 7-8.11.2016, 5.

[75] Ibid.

[76] Gioan XXIII, Sứ điệp truyền thanh gửi tất cả các tín hữu một tháng trước khi khai mạc Công đồng Vatican II (11.9.1962): AAS 54 (1962), 682.

[77] G. LERCARO, Tham luận (6.12.1962), 2: AS I/IV, 327-328.

[78] Ibid., 4: AS I/IV, 329.

[79] Viện Khoa học Tôn giáo (ed.), Per la forza dello Spirito. Discorsi conciliari del Card. Giacomo Lercaro, Bologna 1984, 115.

[80] Phaolô VI, Diễn từ Khai mạc Khóa thứ hai Công đồng Vatican II (29.11.1963): AAS 55 (1963) 857.

[81] Phaolô VI, Giáo lý (11.11.1964): Insegnamenti di Paolo VI, II (1964), 984.

[82] Công đồng Vatican II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 69, 71.

[83] Phaolô VI, Thông điệp Populorum Progressio (26.3.1967), 23: AAS 59 (1967), 269.

[84] Cf. ibid., 4: AAS 59 (1967), 259.

[85] Gioan Phaolô II, Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis (30.12.1987), 42: AAS 80 (1988), 572.

[86] Ibid., AAS 80 (1988), 573.

[87] Gioan Phaolô II, Thông điệp Laborem Exercens (14.9.1981), 3: AAS 73 (1981), 584.

[88] Benedictô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29.6.2009), 7: AAS 101 (2009), 645.

[89] Ibid., 27: AAS 101 (2009), 661.

[90] Hội nghị Chung Lần thứ hai của Các Giám mục Mỹ La tinh, Tài liệu Medellín (24.10.1968), 14, n. 7: Celam, Medellín. Conclusiones, Lima 2005, 131-132.

[91] Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium (24.11.2013), 202: AAS 105 (2013), 1105.

[92] Ibid., 205: AAS 105 (2013), 1106.

[93] Ibid., 190: AAS 105 (2013), 1099.

[94] Ibid., 56: AAS 105 (2013), 1043.

[95] Phanxicô, Thông điệp Dilexit Nos (24.10.2024), 183: AAS 116 (2024), 1427.

[96] Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus Annus (1.5.1991), 41: AAS 83 (1991), 844-845.

[97] Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium (24.11.2013), 202: AAS 105 (2013), 1105.

[98] Ibid.

[99] Phanxicô, Thông điệp Fratelli Tutti (3.10.2020), 22: AAS 112 (2020), 976.

[100] Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium (24.11.2013), 209: AAS 105 (2013), 1107.

[101] Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’ (24.5.2015), 50: AAS 107 (2015), 866.

[102] Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium (24.11.2013), 210: AAS 105 (2013), 1107.

[103] Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’ (24.5.2015), 43: AAS 107 (2015), 863.

[104] Ibid., 48: AAS 107 (2015), 865.

[105] Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium (24.11.2013), 180: AAS 105 (2013), 1095.

[106] Thánh Bộ Giáo lý Đức tin, Huấn thị về một số khía cạnh của ‘Thần học Giải phóng’ (6.8.1984) XI, 18: AAS 76 (1984), 907-908.

[107] Hội nghị Chung Lần thứ năm của Các Giám mục Mỹ La tinh, Tài liệu Aparecida, (29.6.2007), n. 392, Bogotá 2007, pp. 179-180. Cf. Benedictô XVI, Diễn từ Khai mạc Hội nghị Chung Lần thứ năm của Các Giám mục Mỹ La tinh (13.5.2007), 3: AAS 99 (2007), 450.

[108] Cf. Hội nghị Chung Lần thứ năm của Các Giám mục Mỹ La tinh, Tài liệu Aparecida (29.6.2007), nn. 43-87, pp. 31-47.

[109] Hội nghị Chung Lần thứ năm của Các Giám mục Mỹ La tinh, Sứ điệp cuối cùng (29.5.2007), n. 4, Bogotá 2007, p. 275.

[110] Hội nghị Chung Lần thứ năm của Các Giám mục Mỹ La tinh, Tài liệu Aparecida (29.6.2007), n. 398, p. 182.

[111] Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium (24.11.2013), 199: AAS 105 (2013), 1103-1104.

[112] Ibid., 198: AAS 105 (2013), 1103.

[113] Ibid.

[114] Hội nghị Chung Lần thứ năm của Các Giám mục Mỹ La tinh, Tài liệu Aparecida (29.6.2007), n. 397, p. 182.

[115] Phanxicô, Thông điệp Fratelli Tutti (3.10.2020), 64: AAS 112 (2020), 992.

[116] Phanxicô, Tông huấn Gaudete et Exsultate (19.3.2018), 98: AAS 110 (2018), 1137.

[117] Phanxicô, Thông điệp Fratelli Tutti (3.10.2020), 65-66: AAS 112 (2020), 992.

[118] Gregory Cả, Homilia 40, 10: SC 522, ParIs 2008, 552-554.

[119] Ibid ., 6: SC 522, 546.

[120] Ibid ., 3: SC 522, 536.

[121] Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus Annus (1.5.1991), 57: AAS 83 (1991), 862-863.

[122] Phanxicô, Vọng Lễ Hiện Xuống với Các Phong trào Giáo hội (18.5.2013): L’Osservatore Romano 20-21.5.2013, 5.

[123] Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium (24.11.2013), 186: AAS 105 (2013), 1098.

[124] Ibid., 188: AAS 105 (2013), 1099.

[125] Cf. ibid., 182-183: AAS 105 (2013), 1096-1097.

[126] Ibid., 207: AAS 105 (2013), 1107.

[127] Ibid., 200: AAS 105 (2013), 1104.

[128] Phanxicô, Diễn từ tại Hội nghị Các Đại diện Lao động Thế giới tại Genoa (27.5.2017): AAS 109 (2017), 613.

[129] Pseudo-Chrysostom, Homilia de Jejunio et Eleemosyna: PG 48, 1060.

[130] Gregory Nazianzus, Oratio XIV, 40: PG 35, ParIs 1886, 910.

(Nguồn: xuanbichvietnam.net)

bài liên quan mới nhất

bài liên quan đọc nhiều

Top