Suy niệm Lời Chúa: Chúa Nhật 22 Thường Niên B

Lời Chúa: Đnl. 4,1-2.6-8; Gc 1,17-18. 21b-22. 27; Mc 7, 1-8a. 14-15. 21-23
Mục Lục
1. Đâu là sự thật
2. Trong ngoài phải thống nhất
3. Lời tố cáo bọn giả hình
4. “Giới răn Thiên Chúa” và “Truyền thống loài người”
5. Cái nào quan trọng
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu và nhóm biệt phái cùng kinh sư tranh luận với nhau về vấn đề sạch dơ.
- Họ bám sát mặt chữ những quy định của luật lệ về sự phân biệt cái gì sạch cái gì dơ và về những đòi buộc phải rửa tay chân chén dĩa…
- Chúa Giêsu nói đó chỉ mới là sạch dơ bề ngoài, không quan trọng bằng sạch dơ trong tâm hồn.
- Ngài nhận xét đạo đức của họ là chỉ đạo đức giả: “Dân này kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.”
- Ngài có kết án họ lấy tập tục của loài người để thay thế lệnh truyền của Thiên Chúa. Ngài lấy tục lệ Corban ra làm thí dụ điển hình: Corban là của dâng cúng cho Thiên Chúa. Mặc dù Xh 20,12 buộc con cái phải phụng dưỡng cha mẹ. Nhưng để khuyến khích người ta đóng góp cho đền thờ, biệt phái và kinh sư đã dạy rằng nếu ai khấn hứa đem những gì phải giúp cha mẹ để dâng cho Đền thờ thì không còn phải giúp cha mẹ nữa. Qủa thật đây là một cách bóp méo Lời Chúa.
B... Nẩy mầm.
1. Những sai lầm của biệt phái và kinh sư cũng là những sai lầm chúng ta dễ mắc phải:
- Dễ tưởng mình đã là người “công chính” rồi.
-Từ đó, dễ phê phán những người khác không được “công chính” như mình.
Thực ra, sống công chính là một mục tiêu phải phấn đấu suốt đời mà cũng chưa chắc đạt tới. Lời Chúa Giêsu khiển trách họ cũng là một lời khuyên chúng ta lo tu luyện bản thân hơn là để ý so sánh và phê phán người khác.
2. Giữ hình thức bề ngoài dễ hơn sống tinh thần bên trong. Rất tiếc nhiều người mới lo được vẻ bề ngoài thì vội tự mãn.
3. Corban là một cái cớ mà biệt phái dựa vào để chuẩn miễn những bổn phận quan trọng. Chúng ta cũng thường có những thứ Corban của chúng ta. Nhiều khi chúng ta lấy cớ bận lo việc Chúa để trốn tránh bổn phận lo cho con người.
4. “Dân này kính Ta bằng môi miệng”: Một bà cụ năng đến nhà thờ cầu nguyện. Một cậu bé lấy làm ngạc nhiên liền theo dõi. Cậu nấp sau bàn thờ nghe bà cầu nguyện lớn tiếng: “Lạy Chúa, con đã già và sống đủ. Bất cứ lúc nào Ngài gọi, con sẵn sàng”.
Bà cầu nguyện suốt ba ngày cũng những lời ấy. Ngày thứ tư, sau khi bà cầu nguyện, cậu bé giả giọng nói vọng ra từ sau bàn thờ: “Ta đã nghe lời cầu xin của con, Ta sẽ đến đón con lúc chín giờ sáng mai.”
Bà về nhà, không sao ngủ được vì lo lắng về điều đã nghe. Bà không chấp nhận nổi những gì bà đã cầu nguyện. (Góp nhặt)
2. Trong ngoài phải thống nhất
Người ta kể một câu chuyện có tính cách ma quái như sau. Có hai người bộ hành đi đường xa. Đêm đến họ phải vào một cái miếu để ngủ nhờ. Đây là một ngôi miếu nổi tiếng là nhiều ma quái. Bầu không khí lạnh lẽo đến rợn người, làm cho hai người khách bộ hành cảm thấy sợ khi đã vào trong miếu.
Trong hoàn cảnh này người không Kitô nói với người bàn Kitô rằng: Anh làm ơn cho tôi mượn cây thánh giá anh đang đeo ở cổ anh đi. Tôi sợ quá! Hy vọng rằng cây Thánh giá của anh sẽ làm cho tôi bớt sợ.
Thế là người Kitô kia đã gỡ cây thánh giá của anh đang mang ở cổ trao cho người ban không Kitô. Hai người nằm nghỉ đêm.
Trời về khuya, con yêu tinh xuất hiện, nó rờ vào cổ của người Kitô, tính sát hại người này, bỗng nó thốt lên:
- Người này có trong mà không có ngoài.
Con yêu tinh có ý nói rằng người này là một người Kitô đích thực, tuy không mang trong mình một dấu hiệu Kitô nào.
Qua người không Kitô, con yêu tinh chạm đến cây thánh giá người này đeo ở cổ, nó thốt lên:
- Người này có ngoài mà không có trong.
Con yêu tinh có ý nói rằng, người này tuy mang cây thánh giá ở cổ, nhưng không phải là người Kitô đích thực.
Chúng ta là những người Kitô, chúng ta thi hành các việc đạo đức cách đầy đủ, chúng ta mang trong mình nhiều ảnh tượng của Chúa. Nhưng liệu tâm hồn chúng ta có phải là tâm hồn Kitô đích thực không? Liệu đời sống của chúng ta có phải là một thể hiện những gì chúng ta tuyên xưng không? Hay chúng ta chỉ có cái vỏ Kitô hào nhoáng bên ngoài, mà bên trong chúng ta chất chứa toàn là những cặn bã, thối tha?
Chỗ khác nhau và cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với người biệt phái là các chuyên gia về luật pháp nêu lên một vấn đề vô cùng quan trọng, vì nó cho ta thấy chính yếu tính và cốt lõi của hai đường hướng trái ngược nhau giữa Chúa Giêsu với người Do Thái chính thống giáo vào thời của Ngài. Vấn đề đặt ra là tại sao Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài không giữ theo truyền thống của người xưa? Truyền thống đó là gì và tinh thần vận dụng nó là gì?
Đối với dân Do Thái thì luật pháp nguyên có hai nghĩa. Thứ nhất và quan trọng hơn hết là Mười Điều răn, và thứ hai, là năm quyển sách đầu của Cưu ước gọi là Ngũ kinh. Thật ra Ngũ Kinh hàm chứa một số quy tắc và chỉ dẫn chi tiết, nhưng về các vấn đề đạo đức, những gì được nêu lên chỉ là một loạt nguyên tắc mà người ta phải tự giải nghĩa và ứng dụng cho riêng mình. Qua một thời gian dài, dân Do Thái bằng lòng với việc làm ấy.
Nhưng đến thế kỷ thứ 4 và 5 TC một giai cấp các chuyên gia về luật pháp xuất hiện, được biết dưới biệt danh là luật sỹ (Kinh sư) . Nhóm người này không hài lòng với các nguyên tắc lớn về dạo đức, họ có một đam mê có thể gọi là chứng bệnh thích định nghĩa. Họ muốn triển khai, phóng đại, phân tích các nguyên tắc lớn ấy biến chúng thành hàng ngàn luật lệ, qui tắc nhỏ nhặt, để điều khiển từng hành động, từng hoàn cảnh của đời sống. các luật lệ và nguyên tắc ấy không hề được viết ra cho đến thời của Chúa Giêsu một thời gian dài. Chúng vẫn được gọi là Luật Truyền Khẩu, đây chính là cái gọi là tương truyền của người xưa.
Người xưa đây là các đại chuyên gia của luật pháp của các thế kỉ về trước như Hillel và Shammai chẳng hạn. Đến thế kỉ thứ 3 SC, người ta mới tóm tắt tất cả các luật lệ và qui tắc đó, và viết lại thành sách, phần tóm lược đó gọi là kinh Mishnah.
Các luật lệ qui tắc qua đoạn này xuất hiện trong các cuộc tranh luận là việc rửa tay. Các luật sỹ và các biệt phái tố cáo các môn đệ của Chúa đã ăn với bàn tay ô uế. Ô uế đây được hiểu về mặt nghi lễ, không thích hợp cho việc phụng vụ và thờ phượng Thiên Chúa. Có nhiều luật lệ rõ ràng và nghiêm nhặt về việc rửa tay. Trước khi dùng bữa và giữa hai món ăn, người ta phải rửa tay, và phải rửa theo một cách thức nhất định. Để bắt đầu, phải làm cho đôi bàn tay không dính đất cát vôi vữa, đá sỏi vụn hay các vật tương tự khác. Nước rửa tay phải được đựng trong những chén đá lớn đặc biệt, để chính chúng cũng thanh sạch theo ý nghĩa lễ nghi, và để chắc chắn là chúng không được dùng vào việc nào khác và chẳng có vật gì rơi rớt hay lẫn lộn, pha trộn vào đó. Trước hết bàn tay được xòe ra, cá đầu ngón tay chỉ lên trên, nước phải được đổ phái trên và chảy xuống ít nhất đến cổ tay. Lượng nước tối thiểu phải dùng là một phần tư, tương đương với số nước đựng đầy một vỏ quả trứng rưỡi. Trong lúc bàn tay hãy còn ướt phải rửa bàn tay này bằng mu bàn tay kia. Đây là câu giải nghĩa cách thức rửa mu bàn tay này bằng bàn tay kia: mu bàn tay này phải kỳ cọ vào lòng bàn tay kia và toàn thể bề mặt của bàn tay kia. Như thế có nghĩa là trong giai đoạn này, hai bàn tay đã ướt nước, nhưng bây giờ nước đã bị dơ vì tiếp xúc với hai bàn tay dơ rồi. một lần nữa phải chụm các ngón tay lại, chúc xuống dưới rồi đổ nước lên, sao cho nước từ cổ tay đổ xuống khắp các đầu ngón tay. Sau khi đã làm đúng như thế, thì đôi bàn tay mới được sạch. Dưới mắt người Do Thái nếu ai không làm như vậy, chẳng những là kẻ cư xử xấu xa, dơ dáy theo nghĩa có hại cho sức khoẻ, nhưng là kẻ ô uế trước mặt Thiên Chúa. Ai ăn với đôi bàn tay không sạch thì bị con quỉ gọi là Shibta tấn công. không rửa tay như vậy có thể bị nghèo khó, tán gia bại sản. Ăn bánh mì với đôi tay không sạch, chẳng khác gì ăn phân. Có một lần nọ, một Rabi quên giữ nghi lễ đó đã bị khai trừ, một Rabi khác trong khi bị các người Lamã cầm tù đã dùng nước để rửa tay thay vì đẩ uống, cuối cùng ông ta đã gần chết vì khát, vì ông ta đã nhất định giử luật rửa tay thay vì uống nước cho đỡ khát.
Với người Do Thái chính thống thì đó là tôn giáo. Đó là nghi thức, nghi lễ, luật lệ, qui tắc được xem như yếu tính của việc phụng vụ Thiên Chúa. Tôn giáo đạo đức đã bị chôn sâu dưới một khối khổng lồ những cấm kỵ, qui tắc và luật lệ.
Những câu sau tiếp tục đề cập sâu xa hơn quan niệm về sự ô uế này. một vật theo nghĩ bình thường là hoàn toàn sạch sẽ, nhưng lại bị kể là ô uế theo nghĩa luật pháp. Có vài điểm liên quan đến quan niệm ô uế này được chép trong sách Lê vi (11-15) và Dân số (19). Ngày nay chúng ta thường nói đến những điều cấm kỵ thay vì bảo chúng bị ô uế. Có một số thú vật vốn là ô uế, ai chạm đến một xác chết bị ô uế. Mà đã ô uế thì làm ô uế luôn những vật nào mình chạm đến. một người ngoại bang là ô uế, thức ăn mà người ngoại bang chạm đến cũng là ô uế, bất kì cái chén, cái bình nào mà người ngoại bang nào chạm đến cũng bị ô uế cả. Cho nên, mỗi khi người Do Thái giữ đạo nghiêm nhặt đi chơ về, anh ta phải ngâm toàn thân trong nước để được sạch.
Những vật dụng như bình, lọ, chén, bát rất dễ bị ô uế. một người ô uế có thể chạm vào đó, hay người ta dùng nó để đựng thức ăn ô uế. đây chính là điều đoạn sách này muốn nói khi đề cập đến việc rửa chén, bình, bằng đất, bằng đồng. Trong kinh Mishnah có không duới mười hai bài khảo luận đề cập đến loại ô uế đó.
Chúng ta đã dành một số thời giờ đề cập đến các luật lệ của các luật sỹ, các truyền khẩu của người xưa, vì đó là những điều mà Chúa Giêsu đã chống lại. Với các luật sỹ, người biệt phái, thì các luật lệ qui tắc ấy chính là yếu tính của Tôn giáo. Tuân giữ chúng là đẹp lòng Thiên Chúa, vi phạm chúng là phạm tội. Đó là ý kiến của họ về điều thiện và việc phục vụ Thiên Chúa. Trong ý niệm Tôn giáo, thì Chúa Giêsu và những người này đã nói bằng những ngôn ngữ khác nhau. chính vì Ngài chẳng cần đến một qui tắc nào trong tất cả các qui tắc ấy, cho nên họ xem Ngài là kẻ xấu. Ơ đây có hai khuynh hướng căn bản; khuynh hướng của người xem đạo giáo chỉ là nghi thức, nghi lễ, luật lệ, qui tắc; với khuynh hướng của người xem đạo giáo là yêu thưong Thiên Chúa và yêu thương đồng bào, đồng loại. Những câu tiếp theo sẽ khai triển vân đền đó, nhưng rõ ràng ý kiến của Chúa Giêsu với các thầy kinh sư cùng những người biệt phái liên hệ đến đạo giáo chẳng có điểm nào giống nhau.
Các luật sỹ và các biệt phái thắc mắc khi thấy các môn đệ của Chúa Giêsu không tuân giữ những điều tỉ mỉ của truyền khẩu và luật của người xưa về việc rửa tay trướv khi dùng bữa, Chúa Giêsu trích dẫn Isaia cho họ nghe. Trong câu đó, tiên tri tố cáo các con người thời bấy giờ chỉ tôn vinh Thiên Chúa bằng đầu môi chót luỡi, trong khi lòng họ đã xa lạc Ngài. Trên nguyên tắc Chúa Giêsu đã tố cáo họ hai điều:
Ngài tố cáo họ giả hình.
Từ ngữ hupokrites có một lịch sử lý thú và vạch rõ nhiều điều. Thọat tiên nó chỉ đơn giản là người trả lời, rồi nó tiến đến nghĩa người trả lời trong một cuộc đối thoại nào đó hay trong một cuộc đàm thoại nhất định, nghĩa là một diễn viên, cuối cùng, nó không chỉ có nghĩ đơn thuần là một diễn viên trên sân khấu, nhưng là kẻ suốt đời diễn kịch, đóng tuồng, chẳng có chút hành động nào trong hành động của mình. với bất cứ ai mà đạo giáo chỉ là việc tuân giữ pháp luật, với bất cứ ai mà Tôn giáo chỉ là tuân giữ một số luật lệ và qui tắc bên ngoài, với bất cứ ai mà Tôn giáo hoàn toàn liên hệ với một số nghi lễ và tuân giữ một số cấm kỵ thì đến cuối cùng, nhất định người ấy sẽ trở thành kẻ giả hình như nghĩa trên đây. Đó là vì kẻ ấy tin mình là người thánh thiện né6củai giữ được hành vi, cử chỉ bên ngoài cho đúng, bất chấp tấm lòng và tư tưởng mình ra sao. cứ lấy trường hợp của người Do Thái giữ luật pháp vào thời Chúa Giêsu thì sẽ rõ, có thể tự thâm tâm người ấy sẽ ghen ghét đồng bào mình, có thể người ấy đầy lòng tham lam ghen tỵ, và che dấu sự cay đắng, kiêu ngạo nhưng người ấy chẳng chút bận tâm về những điều ấy khi còn giữ đúng nguyên tắc rửa tay, giữ đúng các lề luật về thanh sạch và ô uế. Luật pháp chủ nghĩa chỉ quan tâm đến các việc làm bề ngoài của con người mà chẳng đếm xỉ gì đến các xúc cảm nội tâm. Người ấy tỉ mỉ phục vụ Thiên Chúa bằng các việc làm bề ngoài, nhưng trắng trợn bất tuân những việc trong nội tâm, và như thế là giả hình. Người theo hồi giáo có thể cầu nguyện với thượng đế một số lần nào đó. Để làm điều đó, người ấy đem theo mình một chiếc chiếu, bất cứ ở đâu, lúc nào, người âý cũng có thể trải chiếu ra, quỳ gối xuống, đọc bài cầu nguyện rồi đứng dậy tiếp tục đi. Có câu chuyện một người hồi giáo đuổi theo một người nọ, giơ dao lên định giết ngời ấy. đúng lúc ấy có tiếng chuông báo giờ cầu nguyện, anh ta lập tức dừng lại trải chếc chiếu cầu nguyện ra, quì xuống đọc bài cầu nguyện nhanh theo khả năng anh có thể đọc, rồi đứng lên tiếp tục rược đuổi người kia. Cầu nguyện chỉ là một hình thức một nghi lễ, một việc tuân giữ bề ngoài, chỉ làm trì hoãn một cách phải lẽ việc giết người của anh. Thật chẳng có nguy cơ nào nghiêm trọng hơn nguy cơ đồng nhất hoá với việc tuân giữ bề ngoài. Không có sai lầm nào kinh khủng hơn sai lầm sự đồng nhất hoá điều thiện với một số hành động gọi là Tôn giáo. Đi nhà thờ, đọc Thánh kinh, dâng cúng bạc tiền, cả đấn một thời biểu để cầu nguyện vẫn không khiến người ta trở nên tốt hơn. Vấn đề căn bản là tấm lòng mình phải như thế nào đối với Thiên Chúa và đối với đồng bào mình? Và nếu lòng người ấy là thù địch, cay đắng, lằm bằm và kiêu ngạo, tất cả việc tuân giữ lề luật Tôn giáo bề ngoài trên đời này nhập lại, cũng chẳng khiến người ấy trở thành một người khác hơn là một kẻ giả hình.
Lời tố cáo thứ hai:
Chúa ngấm đưa ra chống lại bọn người chỉ giữ luật pháp đó, họ đã lấy những nỗ lực ngô nghê của loài người để thay cho luật pháp của Thiên Chúa. Họ không lắng nghe tiếng phán của Thiên Chúa để hướng dẫn đời sống mình, mà chỉ nghe theo những lý luận, những tranh luận khôn khéo, những cách nói luẩn quẩn tinh vi, những lý giải tài tình do chuyên gia pháp luật soạn. Sự không khéo không bao giờ có thể làm nền tảng cho đạo giáo chân chính. Đạo giáo chân chính không bao giờ có thể là sản phẩm của trí tuệ con người, không bao giờ do các khám phá tài tình của loài người mà ra, nhưng phải do tấm lòng chân thật, thật thà lắng nghe và tiếp nhận tiếng phán của Thiên Chúa.
Những lời phán tiếp theo của Chúa Giêsu, tuy ngày nay, dường như sự việc không phải như vậy, nhưng lúc đầu tiên , thì hầu như đó là một trong những phần có tính cách cách mạng nhất trong Tân ước. Chúa đang tranh luận với các chuyên gia về luật pháp về nhiều phương diện khác nhau của luật truyền khẩu. Ngài đã cho thấy sự không thích hợp của cách rửa tay cầu kỳ tỉ mỉ. Thế nhưng ở đây, Ngài còn nói một điều gây kinh ngạc nhiều hơn thế nữa. Ngài tuyên bố chẳng có vật gì bên ngoài vào lại có thể khiến người ta thành ô uế được, vì nó chỉ được thân thể thâu nhận rồi chính thân thể giải quyết chúng bằng các đường lối vật lý bình thường. Chẳng có một người Do Thái, nhất là người Do Thái chính thống chịu tin như thế. Sách Lêvi 11 có một bảng liệt kê dài những thú vật không sạch cấm dùng làm thức ăn. Sự việc ấy gây hậu quả trầm trọng như thế nào thì người ta thấy rõ ràng trong nhiều biến cố xảy ra dưới thời anh em nhà Macabê. Thời ấy, Antiôchus, vua Syri muốn nhổ tận gốc đạo Do Thái, một trong những đòi hỏi của vua ấy là người Do Thái phải ăn thịt heo như những người khác, nhưng hàng trăm người Do Thái thà chịu chết chứ không chấp hành luật ấy. Chính trong một hoàn cảnh như thế, Chúa đã nói lên câu nói hết sức cách mạng rằng chẳng có gì từ ngoài vào lại khiến người ta bị ô uế. Chỉ bằng một cái khoát tay, Ngài đã xoá sạch mọi luật lệ mà vì đó, dân Do Thái chịu đau khổ và chịu chết. Cho nên các kinh ngạc thì chẳng có gì là lạ. Thật ra, Chúa Giêsu ngụ ý rằng tự nó thì vật này, vật no không thể là sạch hay không sạch theo bất luận ý nghĩa tôn giáo nào. Chỉ có con người mới có thể thật sự bị ô uế mà thôi, và điều làm ô uế con người chính là hành động của con người ấy, vì chúng vốn xuất phát từ tấm lòng người ta. Đây là một giáo lý mới mẻ, một giáo lý có sức mạnh đập tan mọi sự. Dân Do Thái vốn có, và hiện nay vẫn còn cả một hệ thống các vật kể là sạch và không sạch. Bằng một câu nói quét sạch tất cả, Chúa Giêsu tuyên bố mọi điều đó đều không thích hợp, điều ô uế chẳng díng dấp đến các vật người ta đưa từ ngoài vào cơ thể, nhưng vốn liệt kê những gì từ trong lòng người ta đưa ra. Rồi Chúa liệt kê những điều mà Ngài bảo chúng vốn từ trong lòng người mà ra, và khiến người ta bị ô uế. Đây quả thực là một bảng liệt kê khủng khiếp. Khi khảo sát tỉ mỉ, chúng ta phải rùng mình kinh sợ. Đây quả là lời khuyên phải tránh những điều đáng ghê tởm đó, nhưng chúng ta còn phải thận trọng, thành thật xét lại chính tấm lòng mình.
4. "Giới răn Thiên Chúa" và "Truyền thống loài người"
1. Từ sạch sẽ của đôi bàn tay đến trong sạch trong tâm hồn:
Máccô có chủ tâm khi đặt đoạn Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay trong "phần nói về bánh", giữa hai lần bánh hóa ra nhiều: lần thứ nhất tại vùng đất Do thái (6, 35 và tiếp theo), và lần thứ hai tại vùng đất dân ngoại (8,1-9). Quả thật, đó là cuộc tranh luật giữa Đức Giêsu và những người biệt phái cùng ký lục về "sạch" và "ô uế", và sâu sa hơn là thái độ kì thị của người Do thái đối với dân ngoại. Họ cho rằng dân ngoại thì "ô uế", do đó không được đi lại với những người này.
Tranh luận bắt đầu từ một phản ứng của biệt phái và ký lục từ Giêrusalem đến điều tra "xì căng đan" do các môn đệ Chúa Giêsu gây ra: vài người trong các ông "dùng bữa (nghĩa đen: ăn bánh) với đôi bàn tay dơ, nghĩa là không rửa".
Và Máccô kể cho những người dân ngoại đọc Tin Mừng của ông, một vài tập tục nhằm bảo vệ người Do thái khỏi bị lây nhiễm những tập tục ngoại lai và giữ cho dân Chúa được toàn vẹn về mặt xã hội cũng như Tôn giáo. J.Potin viết: "Nhờ cả một mạng lưới chằng chịt những điều cấm bao trùm từng giây phút, từng tình huống trong đời sống hằng ngày mà dân Do thái vẫn giữ cẩn thận luật về trong sạch (pureté) mà một thành viên dân Thiên Chúa phải có. Ví dụ, tư tế phải thanh tẩy hằng ngày trước khi bước qua tiền đường vào đền thờ. Những hy lễ đền tội được dâng tiến trong các cuộc hành hương ở Giêrusalem, những nghi lễ rửa tay, sự chay tịnh, bố thí, những lời cầu nguyện đều tìm lại sự trong sạch (pureté). Đôi khi sự trong sạch này mất đi vì những "sinh hoạt" của cuộc sống hằng ngày như: sinh đẻ, lỗi luật, tiếp xúc với các xác chết hoặc người ngoại, người cùi... Theo các nói của các rabbi (thầy dạy), luôn có một bức tường vây kín toàn bộ đời sống của người Do thái để bảo vệ họ". (Xem "Đức Giêsu, lịch sử đích thực", Centurion, tr. 192-193). J. Potin viết tiếp, những tập tục này tất nhiên đòi hỏi phải có: "Lối sống định canh định cư rất khác biệt với hoàn cảnh sống rầy đây mai đó của Đức Giêsu và các môn đệ. Hơn nữa, một số môn đệ là người bình dân nên dĩ nhiên không chuẩn bị sẵn sàng để tôn trọng những thói tục của dân thành thị". (Sách đã dẫn, tr. 193-194).
Sau khi trả lời những người biệt phái và ký lục, Đức Giêsu nói với đám đông rồi mới nói với các môn đệ.
Chẳng những không tìm cách xin lỗi các môn đệ, Đức Giêsu còn cự lại những người chống đối và đánh giá họ là "những kẻ giả hình", khi dùng những từ tiên tri Isaia để nói về họ: "Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, và những giáo lý chúng dạy là những giới luật phàm nhân". (Is. 7,6-7 và 29,13).
Kế đó để tiếp tục phản công, Ngài tố cáo những "truyền thống" do cha ông truyền lại (những "truyền thống" của loài người) thường cho phép thay đổi cả những giới răn của Thiên Chúa. Thậm chí Ngài đưa ra một thí dụ điển hình (sách bài đọc không nói đến) để lột mặt nạ tính gỉa dối của những kẻ hay soi mói: "Hãy thờ cha kính mẹ", đó là giới luật tuyệt đối Thiên Chúa đã truyền cho dân Ngài qua miệng Môisen; tuy nhiên người biệt phái đoan chắc rằng nếu ai hứa dâng cúng của cải của mình cho Ngân khố đền thờ thì được miễn nuôi dưỡng cha mẹ già (Họ nói rằng cái gì đã hứa cho Thiên Chúa thì không thể cho người khác được nữa!). J.Putin giải thích: "Đó rõ ràng là cách thay thế giới luật nền tảng của Thiên Chúa bằng sự thánh thiện tiền bạc giả danh Tôn giáo. Đây là một trường hợp quá đáng nên chính những người Do thái cũng chống lại vì họ rất gắn bó với gia đình. Đức Giêsu làm mọi người cảm nhận rõ ràng do đâu những truyền thồng phát xuất từ cơ chế tôn giáo có thể làm biến chất chính điểm căn bản nhất của nó và thậm chí cả hướng đi trong sáng nhất của nó nữa". (Sách đã dẫn, tr. 194).
Rồi Đức Giêsu quay sang nói với "đám đông". Sau khi đã vượt lên trên sự đối nghịch sạch/ ô uế theo nghi lễ, Ngài đi ngược lên tận nguồn gốc của sự ô uế luân lý, nơi xuất phát mọi quyết địch của con người: đó là "lòng" họ. Chỉ có một sự ô uế thật sự mà con người mắc phải khi tự do quyết định theo điều dữ: "chính cái từ con người xuất ra, là cái làm con người ra ô uế".
M.Quesnel khẳng định: "chắc chắn đó là bài học chủ yếu của đoạn Tin Mừng này: không có gì ở ngoài con người có thể làm cho họ trở nên dơ. Về điều này, Máccô là một nhà cách mạng đối với người Do thái thời ông; ông tỏ rõ rằng những người tin vào Đức Kitô và gia nhập Giáo hội không còn lệ thuộc vào sự tuân giữ những luật lệ của Israel về sạch/ ô uế: đụng một xác chết hay một người cùi, ăn uống với người ngoại, uống máu những con vật, đối với những người Do thái tất cả những hành vi này gây ra sự ô uế về nghi lễ, nhưng đối với những người tin vào Đức Kitô, thực sự chúng không còn chút khả năng nào có thể tách rời họ khỏi Thiên Chúa". ("Đọc Tin Mừng Thánh Máccô thế nào?". Seuil, page 125).
Những điều Đức Giêsu vừa nói với đám đông thì lập tức tiếp đó Ngài nói với các môn đệ "trong nhà". Sau khi đã kể ra một loạt những thói xấu và tội lỗi, Ngài kết luật: "Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong xuất ra, và làm cho người ta ra ô uế."
2. Từ phân biệt đến cởi mở và thông điệp:
Chính Máccô giải thích: "Như vậy Đức Kitô tuyên bố mọi thức ăn đều thanh sạch".
Câu này (không có trong sách bài đọc) chắc chắn gây nên một cú sốc: "Ngay lập tức, Đức Giêsu tuyên bố những truyền thống nhằm chia xã hội thành hai khối: người tốt và kẻ xấu theo cách của đạo manichéisme (đạo thiện ác) là những truyền thống lạc hậu. Theo kiểu phân chia này, một bên là những người "sạch" tức người biệt phái (nghĩa từ này là "những người được tách biệt ra") và bên kia những người ô uế, nên tránh, tức những người tội lỗi. Như vậy Đức Giêsu vừa thiết lập một xã hội mở. Phần Thiên Chúa,Người thông hiệp với tất cả những ai là nạn nhân của sự phân biệt xã hội và tôn giáo do chủ trương của phái "những người sạch và khắc nghiệt", tức những người biệt phái. Ngài ăn uống với những kẻ ô uế, "những kẻ bị loại trừ" (người thu thuế, đĩ điếm, lính Rôma...) chính điều mới mẻ này sẽ xô đẩy những ngăn cách tai hại vào thời Đức Giêsu". (J. Hervieux. "Tin Mừng thánh Máccô", Centurion, tr. 103).
Một lời nói rõ ràng và có sứ giải phóng dành cho những người đọc Tin Mừng thánh Máccô ở một thời đại mà Giáo hội sơ khai đang trải qua những căng thẳng và xung đột giữa những Kitô hữu gốc Do thái và dân ngoại. J.Potin nhận xét thêm: "Điều phê phán trên chứng tỏ rằng việc áp dụng giáo huấn này không dễ dàng, như sách Tông đồ công vụ đã chứng minh: Phêrô đã phản đối: "Trong đời tôi, không bao giờ tôi ăn những gì nhơ nhớp và ô uế", khi trông thấy một rổ những loài vật thiên thần mời ông ăn trong giấc mơ (10,14). Nhưng vì người Do thái và dân ngoại cùng hiện diện đồng bàn trong cộng đoàn Kitô hữu nên bắt buộc bãi bỏ những điều cấm về ẩm thực dành riêng cho người Do thái một khi chúng không có chiều kích luân lý". (Sách đã dẫn, tr. 195-196). Qua việc công bố về sạch và không uế, Đức Giêsu mở ra con đường của tự do Kitô giáo.
Khoảng 2 giờ, một buổi sáng lạnh và gió lớn, chuông điện thoại nhà xứ reo, có tiếng hốt hoảng la lên: “Tôi tưởng ông ngoại qua đời”. Vì chỉ cách hai căn phố. Cha Marray đi bách bộ, khi Ngài qua một ngõ hẻm, chợt xuất hiện một bóng hình cầm cây súng bước tới truyền lệnh: “Đưa tiền đây” Vị linh mục nói với người cầm súng: “Ví của tôi để trong túi áo khóac”. Khi Ngài mở nút áo khoác để lấy ví, để lộ chiếc áo Roma. Kẻ cướp ấp úng: “Ôi, con không biết cha là linh mục, con xin lỗi, cha cất tiền đi”. Bình tĩnh lại vị linh mục đưa cho y một điếu xì gà, nhưng y lắc đầu: “Không, cám ơn cha, trong mùa chay con không hút thuốc”.
Kẻ cướp đường hành động như một người biệt phái, người biệt phái giữ hết sức chi tiết những điều lệ nhỏ nhặt của luật Do thái, trong khi đó lại bỏ bê những giới răn quan trọng. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu khiển trách họ. Họ ghét Chúa Giêsu vì Người đe dọa địa vị của họ, như những người lãnh đạo tôn giáo. Họ dò xét Chúa, cố gắng bắt bẻ Người trong lời nói. Họ chỉ trích Người đã hòa mình với người thu thuế và tội lỗi. Người đã bỏ qua lệ rửa tay chân như trong bài Tin Mừng hôm nay. Họ nói Chúa Giêsu không thể tha tội. Người dùng quyền lực của ma quỉ mà trừ quỉ. Họ làm điều lành chỉ cốt cho người ta thấy.
Ngày nay còn người biệt phái không ? Bất hạnh thay, vẫn còn. Đây là một vài kiểu biệt phái tân thời: những người công giáo lẫn lộn những cái không quan trọng với cái thực sự quan trọng.
Giả sử tôi nói với một người nào đến trễ lễ. “Bạn bất lịch sự “. Chắc người ấy cho rằng bị xỉ nhục. Nhưng vì lỗi mình đến trễ lễ, là một sự xúc phạm đến Chúa, làm lo ra cho những người trong nhà thờ và cho vị chủ tế. Có người mỉm cười với bất kỳ ai gặp trong nhà thờ, dĩ nhiên điều đó tốt. Nhưng họ không nói một lời chào Chúa trên bàn thờ. Cũng như khi đi dự tiệc, chỉ nói chuyện với mọi người, trừ ông chủ tiệc. Cái nào quan trọng ?
Có những người công giáo và những người khác nữa, họ không nghĩ rằng: họ sẽ tổ chức hay dự một bữa tiệc nếu có một vết nhơ trên bàn hay trên dĩa hoặc trên quần áo của họ. Nhưng ngôn ngữ của họ không phải chỉ có vết nhơ, mà nó thật là thô bỉ. Một sự thô bỉ bên trong hơn là bên ngoài như Chúa Giêsu đã chỉ rõ trong bài Tin Mừng hôm nay.
Có người trong chúng ta ra ngoài thì hoang phí, rộng rãi với anh bồi quán rượu, hào phóng với cô chạy bàn, nhưng rất keo kiệt với người thân thương, và với Chúa.
Nhiều người không bao giờ quên câu nói: “Xin vui lòng, cám ơn, xin lỗi”, khi ở ngoài gia đình. Nhưng giữa những người thân yêu, ít khi bạn nghe được những từ quan trọng ấy.
Bạn có thể nghĩ đến những hoàn cảnh, trong đó bạn phải sạch sẽ, lịch sự, hào hiệp, chỉ khi nào những hoàn cảnh đó được trình diễn trước mặt mọi người, để đạt được tín nhiệm hoặc tránh khỏi phê bình. Hãy cố gắng đừng làm biệt phái.
Cám ơn Chúa vì phần lớn những người chân thành, họ đặt người khác và sự vật vào đúng vị trí và trật tự của nó. Như đặt thánh lễ lên đầu bảng danh sách những việc quan trọng.
Xin Chúa chúc lành bạn.
bài liên quan mới nhất

- Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 18 Thường niên năm C
-
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 17 Thường niên năm C -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 16 Thường niên năm C -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 15 Thường niên năm C -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 14 Thường niên năm C -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 13 Thường niên năm C -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật Lễ Mình Máu Thánh Chúa năm C -
Bài giảng trong thánh lễ kỷ niệm 50 năm thụ phong Linh Mục 1975/15-6/2025 - linh mục Tổng Đại diện Ignatio Hồ Văn Xuân -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật Chúa Ba Ngôi năm C -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật Chúa Thánh Thần hiện xuống
bài liên quan đọc nhiều

- Tâm tình Mùa Chay
-
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 13 Thường niên năm B -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 14 Thường niên năm A -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 5 Phục sinh năm C -
Hiệp sống Tin mừng ngày 29/06: thánh Phêrô và thánh Phaolô tông đồ -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 3 mùa Chay năm B -
Hiệp sống Tin mừng ngày 02/11: Cầu cho các đẳng linh hồn -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật Chúa Thánh Thần hiện xuống -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 27 Thường niên năm B -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 29 Thường niên năm B