Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật 26 thường niên, năm A

LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
(Cv 1,12-14; Gl 4,4-7; Lc 1,26-38)
ĐỨC MARIA – MẪU GƯƠNG ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN
“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa,
xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38)
I. CÁC BÀI ĐỌC:
Các bài đọc hôm này đề cao vai trò của Đức Maria trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa và là mẫu gương của đời sống đức tin cho người Kitô hữu.
1. Bài đọc I (Cv 1,12-14):
Bài đọc I thuật lại cuộc sống của những người môn đệ sau biến cố Đức Giêsu được rước lên trời. Trong số đó có các tông đồ, có các người phụ nữ thường theo Đức Giêsu trên hành trình loan báo Nước Trời của Người, có các anh em bà con của Đức Giêsu và dĩ nhiên là với sự hiện diện của Đức Maria, thân mẫu Người.
Sau khi trở về nơi trú ngụ ở Giêrusalem từ núi Ôliu, nơi Đức Giêsu được rước lên trời, dựa theo truyền thống Luca, các ông đã làm hai việc đáng lưu ý nói lên nền tảng căn bản làm mẫu mực cho đời sống cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, đó là:
- đồng tâm nhất trí với nhau;
- chuyên cần cầu nguyện.
Điều đáng nói là trước đây các ông ít thực hiện hai việc này, nhưng lúc này các ông lại làm khi cùng quy tụ với những người nam và người nữ là môn đệ của Đức Giêsu, quanh Đức Maria, mẫu mực và là thầy dạy việc cầu nguyện. Quả thật Đức Maria luôn cầu nguyện để tìm kiếm Thánh ý Thiên Chúa và suy niệm trong lòng: từ biến cố truyền tin, khi dâng Đức Giêsu trong Đền thờ, suốt hành trình theo Đức Giêsu đến tận đỉnh núi Canvê. Do đó, có thể nói, các tông đồ và những người tin theo Đức Giêsu lúc này “đồng tâm nhất trí với nhau” và “chuyên tâm cầu nguyện” theo mẫu mực của Đức Maria. Như thế, Đức Maria có vai trò quan trọng trong việc đào tạo đức tin và củng cố đời sống các tín hữu.
2. Bài đọc II (Gl 4,4-7):
Bài đọc 2 ngầm so sánh hai người “đàn bà” nổi tiếng trong Kinh Thánh nhưng lại thuộc hai thái cực khác nhau: một người thuộc thời Cựu Ước là căn nguyên của sự chết; một người thuộc thời Tân Ước là đấng khai sinh Đức Giêsu-Nguồn sự sống.
Thật vậy, nếu Eva là người đàn bà đã đem tội lỗi vào thế gian, thì Đức Maria, Eva mới, đã sinh ra Đấng là nguồn ân sủng trong thế gian. Nếu Eva làm cho con người phải nô lệ tội lỗi và vì có tội nên có Lề Luật, do đó cũng làm cho con người bị giam hãm trong Lề Luật (x. Gl 4,23), thì Đức Maria sinh ra Đấng chuộc con người khỏi nô lệ của tội lỗi và khỏi sự giam hãm của Lề Luật. Nếu Eva làm cho con người mất quyền làm con cái Thiên Chúa, thì Đức Maria sinh ra Đấng đem lại cho con người phúc làm nghĩa tử của Thiên Chúa.
Quả thật, khi đến thời viên mãn, qua Đức Maria, Thiên Chúa đã sai Con mình tới để giải thoát con người khỏi mọi ách nô lệ của Lề Luật và tội lỗi, cho con người nhận lại ơn làm nghĩa tử, làm người thừa kế gia nghiệp Nước Trời. Như thế, Đức Maria cộng tác một phần rất lớn trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
3. Bài Tin Mừng (Lc 1,26-38):
Bài Tin Mừng thuật lại biến cố truyền tin cho Đức Maria. Sứ thần Gábrien, có nghĩa là sức mạnh của Thiên Chúa, đã đến loan tin vui cho Đức Maria với lời chào: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng”. “Mừng vui lên” vì được Thiên Chúa viếng thăm. “Đấng đầy ân sủng” vì có Thiên Chúa ở cùng qua việc được diễm phúc làm Mẹ Thiên Chúa. Đây cũng là ân sủng cao quý nhất và là nguồn gốc của mọi ân sủng khác mà Đức Maria nhận được. Thật vậy, vì được phúc làm Mẹ Thiên Chúa nên Đức Maria được tiên liệu cho hưởng đặc ân vô nhiễm nguyên tội; vì được phúc làm Mẹ Thiên Chúa nên ngài được ơn trọn đời đồng trinh, và vì được phúc làm Mẹ Thiên Chúa nên ngài được hưởng trước hoa trái ơn cứu độ mà Đức Giêsu, Con lòng bà, mang lại, đó là được hồn xác lên trời.
Trước ân sủng lớn lao của Thiên Chúa dành cho mình, Đức Maria đã có phản ứng rất tự nhiên: ngài đã bày tỏ cảm xúc lo sợ qua tâm trạng “rất bối rối” và diễn tả việc suy nghĩ cân nhắc qua hành vi “tự hỏi” về sứ điệp mà sứ thần vừa loan báo cho mình. Tuy nhiên, đó không phải là sự hoài nghi như trong trường hợp của ông Dacaria khi nghe sứ thần truyền tin (Lc 1,12.18) mà là sự biểu hiện của một đức tin trưởng thành trước sứ mạng Thiên Chúa trao cho mình. Do đó, khi đã nhận biết Thánh ý của Thiên Chúa trên cuộc đời và ơn gọi của ngài, Đức Maria đã hoàn toàn tuân theo: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói”. Như thế, Đức Maria là thầy dạy chúng ta trong đời sống đức qua ba thái độ cụ thể: tin tưởng vào Thiên Chúa, phó thác cho Thiên Chúa, và vâng theo kế hoạch của Người.
Biến cố truyền tin cho Đức Maria trong bài Tin Mừng hôm nay là mầu nhiệm thứ nhất trong 5 sự vui của chuỗi Mân Côi. Đồng thời, lời chào của Sứ thần Gábrien trong biến cố truyền tin này làm nên nội dung phần đầu của Kinh Mân Côi “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà…”. Do đó, Kinh Mân Côi diễn tả cách tuyệt vời mầu nhiệm Con Thiên Chúa nhập thể và vai trò cộng tác của Đức Maria trong mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa.
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1. “Đồng tâm nhất trí với nhau” và “chuyên cần cầu nguyện” là hai đặc tính căn bản của cộng đoàn Kitô hữu (x. Cv 1,14; 2,42-46). Chỉ khi như thế, các môn đệ của Đức Giêsu mới có thể liên kết với nhau như các chi thể trong một thân thể huyền nhiệm Đức Giêsu Kitô Phục sinh. Cũng nhờ làm như thế, các môn đệ có thể lãnh nhận Chúa Thánh Thần và dám ra đi loan báo Tin Mừng cứu độ của Thiên Chúa. Tuy nhiên, các môn đệ khi trở về nơi trú ngụ sau khi chứng kiến Đức Giêsu lên trời, đã thấy Đức Maria hiện diện ở đó, nghĩa là họ có thể “đồng tâm nhất trí với nhau” và “chuyên cần cầu nguyện” khi quy tụ quanh Đức Maria. Nhóm, cộng đoàn giáo xứ, cộng đoàn tu trì của chúng ta có thực sự là môi trường để sống hiệp nhất và là trường dạy cầu nguyện hay không? Đức Maria có vai trò như thế nào trong đời sống cộng đoàn của chúng ta, nhất là trong việc đào tạo đức tin và củng cố đời sống đạo?
2. Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai con mình tới, sinh làm con của một người đàn bà, để cứu độ và làm cho mọi người trở thành con Thiên Chúa. Chương trình cứu độ của Thiên Chúa diễn tiến trong lịch sử và từng bước đúng thời đúng buổi của nó. Tuy nhiên, chương trình ấy có được thực hiện đúng thời đúng buổi hay không cũng cần sự cộng tác của con người. Nếu Eva cũ đã khước từ ân sủng của Thiên Chúa qua việc bất tuân lệnh truyền của Người, làm cho con người mất phúc làm con cái Thiên Chúa và phải chết, thì Đức Maria, Eva mới, nhờ thái độ vâng phục, đã sinh hạ Đấng Cứu thế đem lại cho con người quyền làm nghĩa tử và được sống muôn đời. Nếu Đức Maria đã cộng tác một phần rất lớn trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa để đem lại hoa trái cứu độ như thế, chúng ta đã đóng góp phần mình vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa như thế nào? Chúng ta đang là những “Eva cũ” cản trở chương trình của Thiên Chúa hay là những “Eva mới” cộng tác vào chương trình của Thiên Chúa?
3. Đức Maria là thầy dạy chúng ta về đời sống Kitô hữu qua ba thái độ cụ thể: tin tưởng vào Thiên Chúa, phó thác cho Thiên Chúa, và vâng theo kế hoạch của Người mà Đức Maria đã thể hiện qua biến cố truyền tin. Quả thật, đời sống Kitô hữu được xây dựng trên nền tảng đức tin. Tin dẫn đến việc phó thác đời mình vào tay Thiên Chúa. Tin thúc đẩy tìm kiếm và vâng theo Thánh ý Thiên Chúa. Dầu vậy, đức tin này không phải là đức tin mù quáng, mà là một đức tin trưởng thành, có cân nhắc qua nhưng lý lẽ của lý trí và cảm xúc của con tim. Tuy nhiên, đức tin không thể là một thái độ nửa vời mà cần có một chọn lựa dứt khoát qua tiếng “xin vâng”; điều đó đưa tới một dấn thân trọn vẹn cho Thánh ý của Thiên Chúa. Chúng ta đã thể hiện đời sống đạo như thế nào? Có hết lòng tin tưởng vào Thiên Chúa, phó thác cho Thiên Chúa, tìm kiếm và vâng theo kế hoạch của Người trên cuộc đời mình hay không?
4. Bài Tin Mừng về biến cố Truyền tin cho Đức Maria được chọn đọc trong lễ Đức Mẹ Mân Côi và cũng là là mầu nhiệm thứ nhất trong 5 sự vui của Chuỗi Hoa hồng. Hơn thế nữa, lời chào của Sứ thần Gábrien trong biến cố truyền tin này làm nên nội dung phần đầu của Kinh Mân Côi, còn phần hai là lời của bà Êlisabét chúc khen Đức Maria (Lc 1,42) và lời Giáo Hội xin ngài cầu bầu cho mỗi người tín hữu. Vì thế, Kinh Mân Côi diễn tả cách tuyệt vời mầu nhiệm Con Thiên Chúa nhập thể và vai trò cộng tác của Đức Maria trong mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa; đồng thời diễn tả tâm tình biết ơn của Giáo Hội với Đức Maria.
Trong lịch sử Giáo Hội, chính Thánh Đaminh đã phổ biến Kinh Mân Côi vào thế kỷ 13 để chống lại bè rối Albigeois ở miền Nam nước Pháp. Còn đối với đời sống Kitô hữu hiện nay, Kinh Mân Côi là lời kinh rất quan trọng, như Ðức Bênêđíctô XV nói: “Kinh Mân Môi là một trường học của Đức Mẹ mà trong ấy các Kitô hữu có thể học để cho ánh sáng Đức Tin tỏa sáng hơn trong lòng họ”; và trong một lần khác, ngài đã nói “Kinh Mân Côi cần thiết hơn bao giờ hết, vì không những dâng lên Mẹ để nhờ Mẹ làm đẹp lòng Thiên Chúa ban mọi ơn cho chúng ta, mà Kinh Mân Côi còn mang một dấu hiệu lời kinh chung gia đình”. Chúng ta có siêng năng lần Chuỗi Mân Côi, qua đó suy gẫm về các mầu nhiệm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, nhất là mầu nhiệm Nhập Thể hay không? Con người thời đại chúng ta đang có khuynh hướng chia rẽ, con người cảm thấy cô đơn. Chúng ta có ý thức rằng Chuỗi Mân Côi là một lời kinh mang tính kết nối: qua Mẹ đến với Chúa và qua Mẹ để liên đới với nhau khi đọc Kinh Mân Côi chung trong gia đình, thôn xóm và trong cộng đoàn giáo xứ dòng tu hay không?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Nhờ niềm tin tưởng phó thác và sự khiêm tốn vâng phục của Ðức Maria mà Thiên Chúa đã khởi sự công cuộc cứu chuộc loài người qua mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Trong ngày mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi hôm nay, chúng ta cùng chung lời ngợi khen Chúa và tha thiết cầu xin:
1. “Các Tông đồ luôn đồng tâm nhất trí và chuyên cần cầu nguyện cùng với Đức Maria.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh luôn hiệp nhất với nhau để lời rao giảng có thêm sức mạnh và việc phục vụ đem lại nhiều hoa trái.
2. “Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa.” Chúng ta cùng cầu xin cho những người đang gặp khó khăn hay đau khổ về tinh thần lẫn thể xác biết học gương nhân đức của Mẹ, luôn sẵn sàng đón nhận và mau mắn thực thi thánh ý Chúa trong cuộc đời.
3. “Hãy siêng năng lần chuỗi mân côi.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi tín hữu luôn ý thức giá trị của kinh mân côi, và siêng năng thực hành như một phương thế để tái khám phá đức tin và đào sâu các mầu nhiệm cuộc đời của Đấng cứu độ trần gian.
4. “Không có việc gì mà Chúa không làm được.” Xin cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta, biết noi gương Đức Maria, vững lòng tin cậy nơi quyền năng của Thiên Chúa, luôn sống tín thác và trở nên khí cụ cho dự án yêu thương của Người trong xã hội hiện tại.
Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa đã muốn Con Một Chúa mặc lấy xác phàm trong cung lòng Trinh Nữ Maria. Xin nhận lời chúng con cầu nguyện và giúp chúng con biết noi gương Mẹ luôn trung thành gắn bó với Đức Kitô, Con Chúa. Người hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
CHÚA NHẬT XXVI TN - A
(Ed 18,25-28; Phl 2,1-11; Mt 21,28-32)
THI HÀNH Ý CHA
“Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?” (Mt 21,31)
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc I (Ed 18,25-28)
Con người có thể đổi thay, và thường có hai xu hướng: từ tốt trở nên xấu hoặc từ xấu thành tốt. Ngôn sứ Êdêkien trong bài đọc I hôm nay nói về người công chính rời bỏ đường ngay nẻo chính, và sau đó, là một người gian ác từ bỏ con đường gian ác. Nhân danh Thiên Chúa, ngôn sứ tuyên bố một luận điểm rất quan trọng, đó là: chính thái độ sống sau cùng mới có giá trị để được ân thưởng hay bị luận phạt. Nếu một người công chính từ bỏ đường ngay nẻo chính và làm điều bất chính, thì người ấy sẽ chết bởi điều mình làm; còn người gian ác từ bỏ điều xấu đã làm và sống chính trực công minh, sẽ cứu được chính mình.
2. Bài đọc II (Phl 2,1-11)
Thánh Phaolô trong bài đọc II trích thư gởi cho các tín hữu Philiphê đã chỉ ra đâu là cách hành xử phải có của người Kitô hữu. Người nói: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu”. Ở đây thánh Phaolô muốn nói đến tâm tình nào? Đó là quảng đại hoàn toàn, đến độ chấp nhận cả sự sỉ nhục, trong sự vâng phục hoàn toàn thánh ý Thiên Chúa.
Thật vậy, Đức Giêsu, “vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa”. Người đã có thể chọn một cuộc sống vinh quang, danh dự, với mọi biệt đãi đến từ cương vị làm Con Thiên Chúa của Người. Vậy mà Người lại hạ mình, từ bỏ mọi vinh dự vốn có, trở nên kiếp sống phàm nhân hèn mọn để liên đới với chúng ta, những con người tội lỗi.
Chính hành trình này của Đức Giêsu, nói như thánh Phaolô, phải trở nên là hành trình của mỗi chúng ta. Đó là con đường yêu thương thật sự. Ơn gọi Kitô giáo, thật ra, là một ơn gọi hướng đến tình yêu thương quảng đại, ngoan ngùy trước thánh ý của Thiên Chúa và liên đới với những con người đau khổ.
Khởi đầu bài đọc II hôm nay thánh Phaolô có nói đến con đường mà chúng ta phải đi: đó là con đường của đức ái, con đường của sự hiệp thông trong tinh thần cũng như của tình yêu và sự thương cảm. Chúng ta phải từ bỏ sự ích kỷ kiêu căng của mình để sống trọn vẹn trong đức ái và trong tinh thần hiệp nhất với nhau.
3. Bài Tin Mừng (Mt 21,28-32)
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay nói về vườn nho và những người thợ đi làm vườn nho. Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, vườn nho biểu trưng cho Dân Thánh mà Thiên Chúa cần mẫn chăm sóc, nhưng kết quả thu lại rất ít ỏi, do bởi sự từ chối cộng tác của họ (x. Is 5,1-2).
Bài Tin Mừng hôm nay được chia thành hai phần: dụ ngôn ngắn về vườn nho (21,28-30) và phần áp dụng cho người nghe (31-32). Ở đây, thính giả của Đức Giêsu là các thượng tế và kỳ mục trong dân, là những người có thẩm quyền chính thức được công nhận lúc bấy giờ. Chính những người này trước đó đã thẩm vấn Đức Giêsu về việc Người tự do giảng dạy trong Đền thờ: “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy?” (Mt 21,23).
Thật ra, Đức Giêsu cũng chỉ là một người tín hữu bình thường, nhưng lại cho phép mình được giảng dạy cho dân chúng con đường của Thiên Chúa trong khuôn viên Đền thờ, mà không có phép của giới chức có thẩm quyền lúc bấy giờ. Người lại không học trong những ngôi trường của họ, nên không có đủ thẩm quyền để làm điều đó. Nhưng vấn đề khó chịu nhất, đó là đông đảo dân chúng lại kéo đến lắng nghe Người. Vì thế, khi trả lời câu hỏi của họ, Đức Giêsu đã đưa ra một câu hỏi về phép rửa của Gioan Tẩy Giả: đó là phép rửa bởi trời hay bởi con người? (x. Mt 21,25). Họ không biết và không muốn trả lời câu hỏi này. Và Đức Giêsu đã kết luận đơn giản là: tôi cũng không biết (x. Mt 21,27). Sự chống đối lại tăng lên: một phần là dân chúng kéo đến với Người, một phần là do sự khủng hoảng với giới chức lãnh đạo tôn giáo đang tăng dần lên. Trước thực trạng này, chắc chắn rất nguy hiểm, thế nhưng Đức Giêsu vẫn không rút lui, mà vẫn muốn làm tăng thêm sự chống đối. Chính vì thế, Người giới thiệu dụ ngôn hai người con này với câu hỏi trực tiếp “các ông nghĩ sao?” (21,28).
Trả lời cho câu hỏi của Chúa Giêsu “ai trong hai người đã làm theo ý muốn của người cha?” (21,31), họ đáp rất chính xác rằng: “người thứ nhât”, tức là người con ban đầu nói không, nhưng sau đó lại đi làm.
Có một câu nói của các thầy Rábbi: “người công chính hứa ít làm nhiều; người gian ác nói nhiều và chẳng làm bao nhiêu”. Nhưng ở đây Đức Giêsu muốn đi xa hơn nữa, đó là: sự đáp trả của con người trước lời gọi của Thiên Chúa. Phản ứng tiêu cực đầu tiên của con người có thể sửa sai được. Các giới chức lãnh đạo Đền thờ đã phê chuẩn hành xử của người con thứ nhất, nhưng lại khó chấp nhận việc Chúa Giêsu áp dụng cho những người thu thuế và gái điếm, là những người mà theo như lời Người nói, sẽ vào Nước Thiên Chúa trước họ.
Thật ra, việc hoán cải của những người thu thuế và gái điếm được xem là gần như không thể trong xã hội tôn giáo lúc bấy giờ. Nhưng chính Đức Giêsu đã cho thấy điều ngược lại: những người thu thuế và gái điếm biết thành tâm đón nhận sứ điệp Tin Mừng ơn cứu độ; trong khi giới chức lãnh đạo tôn giáo đại diện cho người con thứ hai, là người đã nói tiếng xin vâng đầu tiên, nhưng lại không thực hiện.
Dụ ngôn này có thể được xem là một ‘ẩn số’ cần được giải đáp khi kết thúc với những hàm ẩn sâu xa và thực tế cho cuộc sống, đặc biệt cho những gì được xem thấy ban đầu. Dụ ngôn này có thể là một lời cảnh báo đối với những người thờ phượng Chúa chỉ bằng lời nói suông, nhưng thực tế lại không thi hành ý muốn của Chúa. Nhưng đây cũng là một lời khích lệ, một lời mời gọi cho những người biết ý thức sự yếu đuối của mình, và kiên nhẫn đợi chờ sự thúc đẩy của Thần Khí, để đón nhận sứ điệp của Tin Mừng cứu rỗi.
Bên cạnh đó, nơi dụ ngôn, người cha không ép buộc hai người con của mình, mà như ta thấy cuối cùng, họ đã làm những gì họ muốn. Và Thiên Chúa cũng sẽ đối xử với ta như thế. Người mời gọi ta và vẫn hằng kiên nhẫn gọi mời. Phần chúng ta, chúng ta có tự do chọn lựa và đáp trả. Và ta có thể nói rằng Thiên Chúa quyền lực vô song đã phải trở nên bất khả trước những chọn lựa và quyết định của ta. Người đặt để chúng ta trước sự thiện và ác, giữa sự sống và cái chết, và quyết định là ở nơi ta.
II. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Chính thái độ sống sau cùng mới có giá trị để được ân thưởng hay bị luận phạt. Từ luận điểm của ngôn sứ Êdêkien, nhìn lại đời mình, tôi có quảng đại và bác ái trong cách đánh giá và nhìn nhận người khác, theo cách thức mà tôi ao ước Thiên Chúa và những người khác nhìn tôi mỗi ngày?
2. “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu”. Tôi đã có những tâm tình nào đối với anh chị em tôi bên cạnh những tâm tình của Đức Giêsu Kitô mà thánh Phaolô khuyên nhủ?
3. “Các ông nghĩ sao [...] trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?” Câu hỏi của Đức Giêsu đối với giới chức lãnh đạo tôn giáo Do Thái cũng là câu hỏi chất vấn chính tôi hôm nay: tôi nghĩ sao về cách sống đạo của mình, trong tương quan với Thiên Chúa và trong tương quan với anh chị em của mình?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa là Đấng công minh chính trực hằng mong muốn tất cả mọi người được công chính hóa qua việc vâng nghe và thi hành thánh ý của Người. Với quyết tâm sống theo ý Chúa, cộng đoàn chúng ta hãy thành khẩn nguyện xin:
1. Cầu cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô và hàng Giám mục. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho các vị chủ chăn trong Hội Thánh luôn bừng cháy lòng nhiệt thành cùng sáng suốt trong việc chăm sóc và hướng dẫn đoàn chiên Chúa đã trao phó trên hành trình tiến về quê trời.
2. Cầu cho các kitô hữu đang bị bách hại trên thế giới. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho những anh chị em đang chịu nhiều đau khổ vì Đức Kitô, xin cho họ được bình an và luôn kiên vững vượt qua mọi gian nan thử thách để tuyên xưng và làm chứng cho niềm tin của mình.
3. Cầu cho những người đang lầm đường lạc lối. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho những ai chọn lối sống sai trái để đạt được mục tiêu đời mình, nhận biết giá trị trường tồn của chân lý, tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa, để quyết tâm hoán cải và làm lại cuộc đời.
4. Cầu cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn tỉnh thức nhận ra lời mời gọi của Chúa, và mau mắn đáp trả bằng việc tích cực dấn thân cộng tác để mọi sinh hoạt của cộng đoàn luôn hiệp nhất và thêm phong phú.
Chủ tế: Lạy Chúa là Cha rất nhân lành, xin khứng nhận những ước nguyện chân thành của chúng con và xin dùng quyền lực Thánh Thần biến đổi, giúp chúng con luôn biết vâng nghe và thực thi ý Chúa trong sự khiêm tốn và tín thác. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
bài liên quan mới nhất

- Phụng vụ Lời Chúa: Chúa nhật Chúa Ba Ngôi năm C
-
Phụng Vụ Lời Chúa: Chúa Nhật 7 Phục Sinh năm C - Chúa Thăng Thiên -
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa nhật 6 Phục Sinh năm C -
Phụng Vụ Lời Chúa: Chúa nhật 5 Phục Sinh năm C -
Phụng Vụ Lời Chúa: Chúa nhật 4 Phục Sinh năm C -
Phụng Vụ Lời Chúa: Chúa nhật 3 Phục Sinh năm C -
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa nhật 2 Phục sinh năm C -
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa nhật 2 Phục sinh -
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa nhật Phục sinh -
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa nhật Lễ Lá năm C
bài liên quan đọc nhiều

- Phụng vụ Lời Chúa: Chúa nhật lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
-
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa nhật 1 mùa Vọng năm B -
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa nhật 30 Thường niên năm B - Chúa nhật Truyền giáo -
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa nhật 2 Thường niên năm B -
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa nhật 5 mùa Chay năm B -
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa nhật 26 Thường niên năm B -
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa nhật 3 mùa Chay năm B -
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa nhật 32 Thường niên năm A -
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa nhật 34 Thường niên năm B - Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua vũ trụ -
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa nhật Lễ Thánh Gia Thất năm C