Chúa nhật 25 Thường niên A

Chúa nhật 25 Thường niên A

MỤC LỤC

1. Chủ vườn nho
2. Đừng so sánh
3. Lý lẽ của trái tim – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
4. Suy niệm của Achille Degeest
5. Thiên Chúa quảng đại – Charles E. Miller
6. Tôi đâu có bất công
7. Công Bằng hay Bác Ái?
8. Vì tôi tốt bụng – Lm Nguyễn Cao Siêu
9. Nếu bạn yêu thương bạn sẽ biết Thiên Chúa

----------------o0o----------------

1. Chủ vườn nho

Chúa Giêsu có thói quen dùng những sự kiện cụ thể xuất phát từ đời sống để xây dựng những câu chuyện có tính cách giáo huấn: Nào là mùa nho tới cần phải hái mau. Nào là những người thất nghiệp không có công ăn việc làm. Nào là số tiền lương một đồng tươi xứng với mức sống tối thiểu.

Từ đó, Chúa Giêsu đã kể lại câu chuyện dụ ngôn ngày hôm nay, và qua câu chuyện này Ngài muốn làm cho chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa không phải là một ông chủ theo kiểu các ông chủ trên trái đất này. Họ có bổn phận giữ sự công bằng với thợ thuyền. Còn Thiên Chúa, Ngài không có một bổn phận như thế đối với loài người vì Ngài đứng ở bên kia sự công bằng của loài người, một sự công bằng được giới hạn bởi những gì chúng ta mắc nợ.

Sức cố gắng suốt một ngày làm việc sẽ có một số tiền công tương xứng của một ngày và không có gì hơn. Đồng thời với sức cố gắng của một giờ, lẽ công bằng của loài người sẽ trả số tiền công tương xứng với một giờ, và cũng không có gì hơn. Nhưng đi xa hơn lẽ công bằng còn có lòng nhân từ. Và lòng nhân từ thì không có giới hạn nào hơn là khả năng ban phát.

Thiên Chúa là Đấng nhân từ vô cùng, Ngài có khả năng vô biên. Lòng nhân từ thì đi xa hơn lẽ công bằng. Và lòng nhân từ của Chúa còn đi xa hơn điều mà loài người đáng được hưởng vô cùng. Thiên Chúa cần tới các tay thợ để hái quả trong vườn nho của Ngài. Một sự công bằng tối thiểu được bảo đảm nếu họ quyết tâm ở lại trên bình diện ấy. Nhưng Thiên Chúa còn biếu thêm nữa nếu họ có tấm lòng rộng lớn.

Dụ ngôn này nhắc cho chúng ta tránh đi cách suy nghĩ về Thiên Chúa theo cách thức của loài người, nhất là trong thời buổi hiện nay, một thời buổi đang cố gắng kéo Phúc Âm xuống ngang hàng với những tư tưởng của loài người. Sứ điệp của Tin Mừng là tình yêu, là lòng nhân từ, và khía cạnh chính yếu của nó là sự tự do. Trong khi đó sự công bằng thì bị ràng buộc bởi bổn phận và những gì chúng ta mắc nợ người khác.

Thực vậy, tình yêu và lòng nhân từ thì không bị ràng buộc bởi kết ước. Điều chính yếu đó là ban phát mà không cần đáp trả, một sự ban phát hoàn toàn có tính cách nhưng không. Chỉ cần chúng ta biết đón nhận mà thôi. Hơn nữa, sứ điệp của Phúc Âm đã làm xáo trộn cách thức suy nghĩ cũng như nếp sống của con người. Dụ ngôn trước hết làm cho bọn biệt phái sửng sốt vì nó đặt người ngoại giáo, những kẻ đến sau, ngang hàng với con cái Israel trong Nước Trời. Đồng thời dụ ngôn cũng làm cho chính chúng ta phải ngạc nhiên, bởi vì chính chúng ta cũng có khuynh hướng tự ban phát cho mình công nghiệp, quyền lợi, và nhiều đòi hỏi. Hãy khiêm tốn đặt mình dưới sự cai quản duy nhất của lòng nhân từ Chúa. Xin Chúa ban cho chúng ta cũng như cho những anh em ngoại giáo, không phải những gì tương xứng với sự công bằng, mà còn những gì do lòng nhân từ của Chúa gợi ra.

2. Đừng so sánh

Tại các thành phố hiện nay, cơn sốt về nhà đất mỗi ngày một gia tăng. Một mảnh đất hôm qua chẳng có giá trị gì, thế mà hôm nay có thể trở thành tài sản lớn.

Có một bác nông dân sống ở ven đô, bác nhẩm tính trong đầu rằng: Theo thời giá, miếng đất của bác có thể bán được hai mươi cây vàng. Nhưng rồi có người đến trả cho bác những hai mươi lăm cây. Bác mừng rỡ bán vội.

Liền sau đó, người bên cạnh bán miếng đất chỉ bằng nửa miếng đất của bác mà cũng được hai mươi lăm cây. Bác tiếc ngẩn tiếc ngơ và lên tiếng cự lại người mua hai miếng đất ấy. Và người mua đã trả lời bác:

- Này bác, bộ tôi phỉnh gạt bác à. Bác đã chẳng thỏa thuận với tôi hai mươi lăm cây sao? Hay là bác ganh tị vì tôi đã rộng lượng.

Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin mừng hôm nay và tự hỏi: Chúa Giêsu muốn đưa ra bài học nào? Và trong cuộc sống, đám thợ trước được sánh ví với ai? Còn đám thợ sau được tượng trưng cho hạng người nào?

Chúng ta có thể trả lời: Những kẻ được thuê sau là những kẻ tội lỗi vào thời Chúa Giêsu, họ đã lắng nghe lời Chúa và đã sám hối ăn năn. Còn những người được thuê trước là bọn Biệt phái. Họ giận dữ vì thấy những kẻ tội lỗi sám hối được vào nước trời, và cũng lãnh nhận phần thưởng y như họ. Thái độ của họ có thể sánh ví với thái độ của một ai đó đã lên tiếng chỉ trích Chúa, vì Ngài đã tha thứ cho tên trộm lành trên thập giá vào những giây phút cuối cùng:

- Hôm nay anh sẽ lên thiên đàng cùng Ta.

Từ thái độ của bọn Biệt phái, chúng ta nhận thấy: rất nhiều lần chúng ta cũng đã cư xử với những người chung quanh giống như họ. Chúng ta cảm thấy bực bội tức tối khi người khác giàu hơn chúng ta, đẹp hơn chúng ta, giỏi hơn chúng ta và gặp nhiều may mắn hơn chúng ta. Chúng ta đã ghen tị với họ.

Khi cư xử như thế, chúng ta đã phạm phải một sai lầm lớn là đã xét đoán họ theo những tiêu chuẩn thế gian, chứ không phải theo những tiêu chuẩn của Chúa. Đường lối của Chúa không giống với đường lối của thế gian, như lời thánh Phaolô diễn tả:

- Thiên Chúa đã cố ý chọn những gì thế gian xem là vô nghĩa để làm bẽ mặt đám người thông thái, và Ngài đã chọn những gì thế gian cho là yếu nhược để khiến đám thế lực phải hổ thẹn. Ngài đã chọn điều thiện họ chê bai, khinh bỉ để tiêu hủy những gì thiên hạ cho là quan trọng.

Trong bàn tay của Thiên Chúa, thì một chiếc màng nhện cũng có thể trở nên một bức tường thành bảo đảm an toàn cho chúng ta ẩn náu. Và như thế, đoạn Tin mừng mời gọi chúng ta đừng so sánh mình với người khác mà hãy chấp nhận hiện trạng của mình, như lời thánh Phaolô:

- Mỗi người nên suy xét về cách cư xử của mình. Nếu là tốt thì có thể hãnh diện về điều mình làm, nhưng chớ nên so sánh với điều người khác đã làm. Xét cho cùng, điều quan trọng trong cuộc sống hiện tại không phải là những gì thiên hạ nghĩ về chúng ta, hoặc chúng ta đã làm việc thế nào trong vườn nho của Chúa, nhưng điều quan trọng đó là, Thiên Chúa sẽ nghĩ gì về chúng ta và nhất là về tình yêu mà chúng ta đã dành cho Ngài trong suốt dọc cuộc đời chúng ta.

3. Lý lẽ của trái tim – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Khi nghe dụ ngôn này có nhiều người thắc mắc: Chúa có công bằng không khi ban thưởng cho người làm ít cũng bằng người làm nhiều? Hỏi như thế là chưa hiểu rằng đây chỉ là một dụ ngôn. Dụ ngôn không phải là một chuyện có thật. Nhưng chỉ là một câu chuyện dùng làm hình ảnh để giải nghĩa giáo lý của Chúa. Trong dụ ngôn, Chúa không có ý dạy về những kiến thức trần gian, nhưng muốn nói về những chân lý Nước Trời. Những bài học mà Chúa muốn dạy ta qua dụ ngôn ‘Người thợ làm vườn nho giờ thứ mười một’ này là:

1) Chúa yêu thương hết mọi người và mong muốn mọi người được ơn cứu độ. Vườn nho tượng trưng cho Nước Chúa. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Người được thuê là người được mời gọi vào Nước Chúa. Tiền lương là sự sống trong Nước Chúa. Hình ảnh ông chủ ngày ngày ra chợ tìm thuê thợ là hình ảnh của Chúa yêu thương. Không phải ta đi tìm Chúa, nhưng chính Chúa đi tìm ta. Không phải tìm một lần mà tìm suốt ngày, từ giờ này sang giờ khác. Nếu những người được thuê vào buổi sáng sớm tượng trưng cho những người có số phận may mắn, có khả năng hơn người, thì những người được thuê vào cuối ngày tượng trưng cho những người kém may mắn, kém khả năng, bị thiệt thòi trong xã hội. Việc Chúa thuê hết mọi người từ sáng sớm cho đến chiều tà, từ người sang đến kẻ hèn, từ người tài giỏi đến những người kém cỏi, từ người khỏe mạnh đến người yếu kém, tất cả nói lên lòng yêu thương của Chúa. Chúa muốn mời gọi hết mọi người, mong muốn hết mọi người được ơn cứu độ, được hưởng hạnh phúc trong Nước Chúa.

2) Hạnh phúc Nước Trời là ân huệ Chúa ban. Nếu Chúa không kêu gọi thì không ai có thể được vào vườn nho của Chúa, được vào Nước Chúa. Nếu Chúa không ban hạnh phúc Nước Trời thì chẳng ai có thể tự mình chiếm lấy được. Việc Chúa ban thưởng cho những người được thuê mướn cuối cùng trước những người được thuê mướn đầu tiên làm nổi bật chân lý này: Nước Trời là ân huệ Chúa ban. Ân huệ phát xuất từ tình thương của Chúa chứ không do công đức của ta. Vì thế chẳng ai có quyền đòi hỏi. Hơn nữa, ơn Chúa ban vượt quá sức, quá lòng mong ước của ta. Hiểu biết điều này, ta sẽ không ngừng tạ ơn Chúa.

3) Chúa yêu thương và mong ta biết yêu thương như Chúa. Những người thợ làm từ sáng sớm không có gì để kêu trách Chúa về tiền lương, vì đã được thỏa thuận từ trước. Họ chỉ kêu trách vì thấy người làm ít cũng được như mình. Họ kêu trách lòng nhân từ của Chúa. Đó là điều vô lý. Và Chúa đã nêu rõ điểm vô lý đó: Tại sao kêu trách vì tôi tốt bụng? Phần mình đã được rồi, tại sao không vui mừng vì những anh em kém cỏi, kém may mắn cũng được ân huệ vào phút chót. Qua điều này Chúa muốn dạy ta hãy biết yêu thương những người kém cỏi, bé nhỏ, nghèo hèn. Một xã hội muốn tốt đẹp phải biết giúp đỡ những người bé nhỏ. Một xã hội chỉ thực sự văn minh khi biết quan tâm tới những người kém may mắn. Nếu chỉ nghĩ đến bản thân mình ta sẽ thấy cuộc đời chỉ toàn bất công. Nếu biết nghĩ đến người khác, ta sẽ thấy cuộc đời thật đẹp đẽ vì chan chứa tình người.

Qua dụ ngôn này ta thấy tư tưởng của Chúa khác hẳn tư tưởng của con người. Cách cư xử của Nước Trời khác hẳn cách cư xử của nước trần gian. Lý luận của Chúa khác hẳn lý luận của người đời. Không tìm lợi lộc cho bản thân nhưng lo tìm hạnh phúc cho người khác. Không trọng sang khinh hèn, nhưng để ý yêu thương giúp đỡ những người kém may mắn, bị bỏ rơi trong xã hội. Không dùng lý lẽ của lý trí nhưng dùng lý lẽ của con tim, một con tim luôn yêu thương, luôn mong muốn hạnh phúc cho mọi người. Chúa mong con cái Chúa cũng hãy có tư tưởng của Chúa, cư xử như Chúa và yêu thương như Chúa. Như thế mới có thể làm cho Nước Chúa mau lan rộng.

Lạy Chúa, xin cho con hiểu được đường lối Chúa và cho con luôn đi trong đường lối của Chúa. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Công bình tuyệt đối có làm cho con người hạnh phúc không, hay là còn cần tới bác ái nữa?
2) Qua dụ ngôn này, Chúa muốn dạy tôi điều gì?
3) Nếu bạn là người tàn tật, yếu ớt, thất bại, bạn mong chờ điều gì nơi xã hội: công bình hay bác ái?

4. Suy niệm của Achille Degeest (Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Chúa Giêsu theo thói quen thường dùng dữ kiện trực tiếp có sẵn trước mắt các môn đệ để xây dựng một câu chuyện. Những dữ kiện đó là mùa nho chín cần phải hái mau, là hiện tượng thất nghiệp trong một xã hội đang gặp khủng hoảng kinh tế, là số tiền lương một đồng tương xứng với mức sống tối thiểu. Bắt nguồn từ đấy, Chúa Giêsu tưởng tượng ra một dụ ngôn và qua đó Chúa muốn luồn vào một lời giáo huấn. Ngài muốn làm cho người ta hiểu rằng Thiên Chúa không phải là một ông chủ theo kiểu các chủ nhân trên trái đất này. Những người này có bổn phận giữ sự công bằng đối với thợ thuyền. Còn Thiên Chúa, Người không tự nhận là có một bổn phận như thế đối với loài người, vì Người đứng ở bên kia sự công bằng của loài người. Sự công bằng được giới hạn ở những gì chúng ta mắc nợ. Sức cố gắng suốt một ngày làm việc sẽ có một số tiền công tương xứng của một ngày, không có gì hơn. Và với sức cố gắng của suốt một giờ, lẽ công bằng của loài người sẽ trả số tiền công tương xứng với một giờ, cũng không có gì hơn. Nhưng đi xa hơn lẽ công bằng còn có lòng nhân từ. Và lòng nhân từ không có giới hạn nào hơn là khả năng ban phát. Thiên Chúa là Đấng nhân từ vô cùng, Người có khả năng vô biên, Người không có giới hạn. Lòng nhân từ đi xa hơn điều mà loài người đáng được hưởng vô cùng. Thiên Chúa muốn cần tới các tay thợ để hái quả trong vườn nho của Người. Một sự công bằng tối thiểu được bảo đảm, nếu họ quyết tâm ở trên bình diện ấy, nhưng Thiên Chúa còn biếu thêm nữa nếu họ có tấm lòng khá rộng lớn. Dụ ngôn này nhắc lại cho ta là phải tránh suy nghĩ về Thiên Chúa theo kích thước của loài người. Sự nhắc lại này thích đáng một cách đặc biệt ở thời đại ta, lúc mà những khối óc cho mình là Kitô hữu đang cố gắng lôi kéo Phúc âm xuống ngang hàng với tư tưởng của loài người trong lúc cần phải nâng cao nhân tính lên tới trình độ của Phúc âm.

1) Trình độ của Phúc âm là trình độ của Tình yêu, mà một trong những dấu hiệu bên ngoài là lòng nhân từ. Dụ ngôn nhấn mạnh ở một khía cạnh chính yếu của lòng nhân từ, đó là sự tự do. Chớ thì tôi không được sử dụng của cải như sở thích của tôi sao? Sự công bằng không được tự do, nhưng bị ràng buộc do bổn phận và những gì ta nợ người khác. Lòng nhân từ, trái lại, không bị ràng buộc bởi khế ước. Nó chỉ biết một điều tất yếu duy nhất, phát xuất từ chính lòng nhân từ và thúc giục phải ban phát, nó không muốn tạo ra nơi người thụ hưởng của ban phát bổn phận phải đền trả. Nó ban phát nhưng không. Điều này không có nghĩa là nó không chờ đợi một sự đáp ứng nào. Nó chờ đợi người ta nhìn nhận, nghĩa là chờ đợi ở con người một hành động ý thức và tự do là nhận biết từ đâu và do kẻ nào mà có những ân huệ mà con người đang thụ hưởng, một lòng biết ơn được diễn tả cách thông thường qua những lời cám ơn lòng tri ân và những lời ca ngợi. Lòng nhân từ của Chúa nói lên sự tự do của Chúa lúc ban phát và sự tự do của con người lúc đón nhận.

2) Trình độ Phúc âm còn làm xáo trộn cách thức suy nghĩ của loài người. Dụ ngôn làm người Biệt phái phải sửng sốt vì nó đặt người ngoại giáo, những kẻ đến sau, ngang hàng với con cái Israel trong Nước Trời. Mục đích của dụ ngôn là làm cho cả ta cũng phải ngạc nhiên, bởi lẽ trong cộng đoàn Kitô giáo và ngay cả trong sự cố gắng hàng ngày của ta để sống trung thành, có lẽ ta cũng có khuynh hướng tự ban phát cho mình công nghiệp, quyền lợi và nhiều đòi hỏi. Hãy để ý và khiêm tốn đặt mình dưới sự cai quản độc nhất của lòng nhân từ Thiên Chúa. Hãy xin Chúa ban cho ta cũng như cho anh em ngoại giáo không phải những gì tương xứng với sự công bằng, nhưng những gì mà lòng nhân từ của Người gợi ra.

5. Thiên Chúa quảng đại – Charles E. Miller (Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)

Ngày nay có một điều khẳng định lớn lao mà mọi người thợ, dù là nam hay nữ, nếu họ cùng làm một công việc như nhau, cùng một chất lượng như nhau sẽ được trả bằng nhau. Đó chỉ là sự công bằng. Ngay cái nhìn đầu tiên vào người chủ nợ trong dụ ngôn của Chúa Giêsu, người đã trả cho các người thợ cùng một mức lương dù có người chỉ làm có nửa giờ. Bạn sẽ trả cho những người thợ cùng một mức lương nếu bọn họ làm cùng một thời gian.

Một cách để cắt nghĩa hành động lạ lùng của người chủ này, không hề có sự bất công trong việc trả lương cho những người thợ, từ lúc bắt đầu cho đến khi chấm dứt, họ đã đồng ý chấp nhận mức lương công nhật rồi. Không có sự bất công khi trả lương cho những người thợ làm đầu tiên vì họ nhận đúng những gì họ đã đồng ý. Và phần lớn chúng ta đều không cảm thấy thoải mái về dụ ngôn này. Chúng ta đã không thấu đáo vấn đề.

Một bước nữa để chúng ta nhận ra mình phải thích ứng thế nào với dụ ngôn này. Không có lý do nào để chúng ta nghĩ rằng, chúng ta là những người đã làm việc lâu giờ và nhiệt thành cho Chúa mà chúng ta lại được giới thiệu như những người làm giờ thứ nhất, khi họ nói: “Chúng tôi đã làm suốt cả ngày dưới cái nóng gay gắt”. Thật sự chúng ta đã làm gì cho Chúa nếu chúng ta so sánh chúng ta với những vị thánh lớn trong suốt nhiều thế kỷ vừa qua? Và như vậy chúng ta sẽ không có gì phàn nàn về dụ ngôn này nữa.

Vẫn còn có nhiều ý nghĩa hơn ẩn chứa trong dụ ngôn này, hơn những gì chúng ta có thể khiêm tốn và thận trong áp dụng cho chính mình. Ý nghĩa đó được tỏ lộ qua những lời của vị chủ vườn. Khi người thợ làm vào giờ thứ nhất phàn nàn với ông. Ông đã trả lời cách mạnh mẽ “Tôi không hề để cho anh bị thiệt hại”. Và tiếp đó ông thêm một câu hỏi khó trả lời: “Không phải tôi được tự do sử dụng tiền theo ý tôi sao?” Đối với câu hỏi này, những người công nhân sẽ không có cách trả lời nào khác ngoài việc gật đầu xác nhận. Nhưng người chủ vườn còn nói thêm một câu tỏ lộ điều cốt yếu của dụ ngôn này: “Hay là anh ghen tị vì tôi quảng đại chăng?”

Tóm lại, dụ ngôn này nói về sự quảng đại của Thiên Chúa. Thật sự là tất cả những người thợ, ngoại trừ người cuối cùng, không biểu thị cho một nhóm người nào trong dân chúng. Chúa Giêsu bao gồm những người thợ làm sớm trong dụ ngôn chẳng qua vì người muốn nhấn mạnh rằng, Thiên Chúa luôn luôn công bình nhưng quan trọng hơn là Người rất quảng đại. Thiên Chúa quảng đại với hết thảy mọi người cuối cùng vào vườn nho biểu thị cho hết thảy chúng ta.

Thiên Chúa ban phát ân sủng của Người cho mọi người. Chúng ta không cần phải cố gắng tìm hiểu tại sao một số người có vẻ như coi thường ân sủng của Thiên Chúa. Nỗ lực của chúng ta sẽ đặt vào việc nhận biết những ân sủng quảng đại của Thiên Chúa ban xuống trên chúng ta. Người đã ban cho chúng ta đời sống, gia đình, thế giới mà chúng ta đang sống và Người đã ban cho chúng ta đức tin công giáo. Tất cả những điều này đều là ân sủng, là đặc ân đến từ Thiên Chúa. Không có gì dù đơn sơ mặc lòng mà chúng ta có thể làm để đáng được hưởng phúc lành của Thiên Chúa.

Sự quảng đại của Thiên Chúa được biểu lộ trong suốt phụng vụ hy tế Thánh Thể. Người nuôi dưỡng chúng ta bằng Thịt và Máu của người con Thần linh của người. Chúng ta thú nhận sự bất xứng của mình: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con”, những vị thánh cao cả nhất cũng không xứng đáng với Thánh Thể, và các ngài còn không được hưởng dồi dào bí tích ấy như chúng ta. Sau khi chúng ta thú nhận sự bất xứng của mình. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đến với Người để lãnh nhận Mình và Máu Người trong đức tin.

Và nhờ đức tin đó mà chúng ta không bao giờ phàn nàn với Thiên Chúa như những người thợ đã làm đầu tiên, nhưng luôn luôn biết dâng lời tạ ơn và ngợi khen Thiên Chúa, Đấng cao vượt hơn cả trí tưởng cuả chúng ta là sự quảng đại của người dành chúng ta.

6. Tôi đâu có bất công (Trích trong ‘Manna’)

Trong dụ ngôn người cha nhân hậu (Lc 15), chúng ta đã từng thấy thái độ của người con cả nổi giận không chịu vào nhà, vì anh thấy cha tỏ ra quá bao dung đối với đứa em hư đốn, chẳng những cha tha thứ mà còn mở đại tiệc ăn mừng.

“Đã bao năm con hầu hạ cha? thế mà chưa bao giờ? còn thằng con của cha đó... Vậy mà...”

Anh thấy mình bị cha đối xử bất công!
Trong dụ ngôn trên đây, người làm sớm cũng cằn nhằn vì ông chủ trả hậu hĩ cho người mới làm một tiếng.

Cả hai dụ ngôn đều phản ánh một căng thẳng có thực do việc Đức Giêsu thường giao du với tội nhân. Ngài quý trọng từng con chiên lạc, đem đến cho họ niềm vui sống và sự tự tin. Ngài mời họ hoán cải và hứa ban cho họ Nước Trời.

Như thế, rốt cuộc những người Do Thái tội lỗi cũng được hưởng hạnh phúc như các ông Pharisêu suốt đời tuân giữ chi li Lề Luật.

Người Pharisêu bị sốc vì thái độ của Đức Giêsu. Họ cảm thấy quyền lợi của mình bị xâm phạm.

Khi nhìn thái độ bực bội của người làm từ sớm, chúng ta hiểu được thế nào là ghen tỵ.

Người làm sớm cằn nhằn ông chủ vườn nho không phải vì ông đã đối xử bất công đối với họ (họ vẫn được trả đủ tiền lương mà), nhưng vì ông đã trả cho người làm sau ngang hàng với họ, là những kẻ vất vả suốt ngày. Nếu ông trả cho người làm sau ít hơn, chắc họ chẳng hề tỏ vẻ khó chịu.

Người ghen tỵ không vui được với người vui vì họ không biết yêu thương. Họ coi người kia là kẻ thù, chứ không phải là bạn, nên sự thành công của ai đó trở thành nỗi đe dọa.

Đức Giêsu mời chúng ta đổi cái nhìn về Thiên Chúa. Ngài công bình, nhưng không cứng nhắc trong luật lệ. Ngài có trái tim để tự do yêu, có lòng tốt để bất ngờ trao tặng, Thiên Chúa là Thiên Chúa của người trộm lành, là chủ của người thợ chỉ làm có một tiếng.

Thiên Chúa công bình lại là người cha đầy yêu thương. Đức Giêsu cũng mời ta đổi cái nhìn về tha nhân, bớt tự hào về mình, thêm trân trọng người khác, phá bỏ những hàng rào của nhỏ mọn, ghen tương.

Đến khi nào người con cả mới chịu vào nhà để niềm vui của cha, của em là của anh?

Đến khi nào người làm từ sáng sớm biết chia vui cùng người mới làm buổi chiều?

Đến khi nào tôi mới thật sự vui với người kế bên chỉ vì người ấy là bạn tôi?

Gợi Ý Chia Sẻ

• Cain vì ganh tỵ đã giết em là Aben. Người ganh tỵ vừa hủy diệt người khác, vừa huỷ diệt chính mình. Có khi nào bạn nuôi lòng ganh tỵ, ghét ghen không? Làm sao để ra khỏi thái độ đó?
• Bạn thấy “vui với người vui” dễ hay khó? Có khi nào bạn vui trước thành công của một người bạn hay của một người mà bạn không ưa?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa, xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình, nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.

Xin cho con vượt qua mọi oán hờn nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện.

Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng, không một biến cố nào làm xáo trộn, không một đam mê nào khuấy động hồn con.

Xin cho con đừng quá vui khi thành công, cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.

Xin cho quả tim con đủ lớn để yêu người con không ưa.

Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để có thể ôm cả những người thù ghét con.

7. Công Bằng Hay Bác Ái? (Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trong cuốn sách mang tựa đề: “Người đó, chính là bạn”, cha Louis Evely đã kể một câu truyện sau đây:

Trong một vở kịch, nhà đạo diễn Jean Anouilb đã dàn dựng cảnh ngày phán xét chung theo như ông tưởng: Những kẻ lành đang đứng trước cửa vào thiên đàng, chật ních, chen lấn để vào, chắc chắn thế nào cũng có chỗ sẵn. Hồi hộp, sốt ruột… Nhưng, bỗng nhiên, người ta bắt đầu xì xầm với nhau: “Hình như Thiên Chúa cũng tha thứ cho mấy người đứng bên kia nữa”. Thế là họ lại phải một mẻ ngẩn người ra. Họ nhìn nhau, không thể hiểu được. Họ la ó, phản đối. Họ bất mãn… “Vậy thì cần gì phải hy sinh khó nhọc cả đời…”. “Tôi mà biết vậy thì tôi đã ăn chơi cho đã đời…”. Gan mật họ sôi lên. Họ bắt đầu kêu la trách móc Thiên Chúa và cũng chính lúc đó, họ bị đày xuống hỏa ngục.

Cha Louis Evely giải thích: ‘Giờ phán xét đã điểm: họ đã tự xét xử lấy họ, đã tự tách mình ra khỏi hạnh phúc của Chúa. Tình yêu đã biểu hiện cho họ, nhưng họ đã từ chối không nhận tình yêu: “Tôi từ chối không chấp nhận cái thứ thiên đàng mà người ta vào như chợ. Tôi phản đối Thiên Chúa đã tha cho hết mọi người. Tôi không thích Thiên Chúa yêu thương cách mù quáng như thế”. Vì họ không thích Tình Yêu nên họ không nhận ra được Tình Yêu. Chỉ có Tình Yêu mới làm những chuyện như thế. Với Chúa, chúng ta phải luôn sẵn sàng để đón nhận những chuyện bất ngờ như vậy”.

Cũng thế, thưa anh chị em, có lẽ ai trong chúng ta cũng bị chưng hửng trước cách ứng xử của ông chủ vườn nho mà ChúaGiêsu diễn tả trong dụ ngôn của Tin Mừng hôm nay. Ông chủ vườn nho này không ai khác hơn là hình ảnh của chính Thiên Chúa mà Đức Giêsu diễn tả trong dụ ngôn của Tin Mừng hôm nay. Ông chủ vườn nho này không ai khác hơn là hình ảnh của chính Thiên Chúa mà Đức Giêsu muốn giới thiệu với chúng ta. “Tại sao ông chủ lại trả công cho mọi người bằng nhau, người chỉ làm có một giờ cuối ngày cũng được lãnh tiền bằng người đã làm trọn ngày nắng nôi nặng nhọc? Có phải ông chủ bất công hay không?”. Câu trả lời của ông chủ làm cho những công nhân và chúng ta phải ngạc nhiên thán phục: “Này anh, tôi đâu có xử bất công với anh. Anh đã chẳng thỏa thuận với tôi công nhật là một đồng sao? Cầm lấy phần của anh mà đi đi! Tôi không muốn cho người làm sau chót cũng được bằng anh. Tôi không có quyền làm thế sao? Hay anh ganh tị vì thấy tôi đối xử rộng rãi tốt lành với những người khác?”. Quả thật, Thiên Chúa hành xử không theo sự công bằng của con người, nhưng theo lòng thương xót và tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Qua đó, chúng ta khám phá được một điều quan trọng là suy nghĩ và hành động của Thiên Chúa khác xa với suy nghĩ và hành động của chúng ta. Ngôn sứ Isaia đã nói rõ: “Chúa phán: tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta: Trời cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi và tư tưởng Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi bấy nhiêu”.

Thưa anh chị em,

Nếu cứ theo lẽ công bằng thường tình của loài người chúng ta: người làm nhiều sẽ lãnh lương nhiều, người làm ít sẽ lãnh lương tí, thì hỏi rằng, người làm một tiếng đồng hồ sẽ được bao nhiêu tiền để đủ nuôi sống gia đình, con cái, đang túng thiếu, nghèo đói? Chính vì thương xót, thông cảm cảnh nghèo đói, thất nghiệp của các công nhân và vì muốn cho mọi người có công ăn việc làm, mà ông chủ đã mời gọi mọi người thất nghiệp vào làm việc bất cứ giờ nào, và đã trả lương cho mọi người bằng nhau, người đến sau cũng như người đến trước. Câu trả lời của ông chủ vườn: “Hay anh ganh tị vì thấy tôi đối xử rộng rãi, tốt lành với người khác?”đã vạch ra tâm địa ích kỷ, hẹp hòi của nhóm công nhân làm từ đầu ngày. Lời đó cho thấy chính họ mới là kẻ bất công, vì không chấp nhận cho người khác có quyền sống hạnh phúc như họ. Tâm địa xấu xa của họ càng làm nổi bật lòng nhân nghĩa cao vời của ông chủ. Ông không đối xử với người ta theo tương quan buôn bán, tính toán, nhưng theo tương quan tình nghĩa và mời gọi người ta bắt chước cách đối xử tình nghĩa của ông.

Anh chị em thân mến,

Cách ứng xử của ông chủ trong câu chuyện dụ ngôn chính là cách ứng xử của Thiên Chúa đối với chúng ta. Thiên Chúa của chúng ta hành động như thế đó. Thật là rộng lượng, nhân từ! Ngài mời gọi những người thu thuế, những người bị xã hội loài người khinh chê, loại trừ, những người tội lỗi, vào Nước Trời một cách rộng rãi, cho không, chẳng phải vì công trạng gì xứng đáng của họ. Người công chính, đạo đức, đừng vì thế mà ganh tị kêu trách Chúa bất công, giống như những người Biệt Phái Pharisêu đã kêu ca trách móc Chúa. Lòng thương xót của Thiên Chúa đón nhận tất cả mọi người không trừ mộ ai, vì bản chất của Ngài là Tình Yêu. Chúng ta thường làm ngạc nhiên và bị “sốc”trước cách hành xử Thiên Chúa. Đôi khi chúng ta cũng có những phản ứng như những công nhân làm việc giờ đầu tiên hoặc như những kẻ lành trước cửa Thiên Đàng trong vở kịch Ngày phán xét chung của nhà đạo diễn Jean Anouilh: “Sao! Những tên đã sống một cuộc đời bừa bãi, bê bối, lung tung kia cũng được Chúa tha sao? Thậm chí những kẻ đã bách hại đạo Chúa, nếu sau này ăn năn hối cải, cũng xứng đáng được hưởng Nước Trời như người Kitô hữu nhiệt thành cả đời sao? Tên gian phi bị treo trên thập giá bên cạnh Chúa Giêsu cũng được vào Thiên Đàng sao?” (x.Lc 23,43).

Thiên Chúa chúng ta như thế đó! Thật rộng lượng, nhân từ. Quả thật đường lối của Ngài khác hẳn đường lối ti tiện, hẹp hòi của chúng ta. Chúng ta hay so đo, tính toán, đánh giá từ sự so sánh của chúng ta. Chúng ta nhìn người khác với những cái-họ-có-hơn-mình hay cái-mình-không-có, để bực tức, ghen ghét. Nhiều khi chúng ta nhân danh công bằng để đối xử hẹp hòi, khắt khe, độc ác với kẻ khác. Công bằng là mức độ thấp nhất của bác ái. Công bằng mà không có bác ái là tàn nhẫn, là vô nhân đạo. Phải vượt hơn mức tối thiểu của công bằng, chúng ta mới có thể đối xử bác ái, tình nghĩa với nhau được, cuộc sống mới chan hòa tình người, đầy niềm vui và hạnh phúc.

Với những ai hay so đo, tính toán với anh em, Thiên Chúa sẽ cứ theo luật công bằng mà xét xử; còn những ai rộng rãi, biết thương xót người, thì sẽ được Ngài xét xử theo lòng nhân từ xót thương. Thiên Chúa luôn luôn tuyệt vời hơn những gì con tim nghèo nàn của chúng ta có thể tưởng tượng. Ước gì trái tim chúng ta trở nên giống như trái tim của Thiên Chúa Tình Thương. Chính trong tình thương, chúng ta sẽ gặp được Thiên Chúa.

8. Vì tôi tốt bụng – Lm Nguyễn Cao Siêu

Sau khi anh thanh niên giàu có từ chối lời mời của Đức Giêsu, ông Phêrô đã đại diện anh em hỏi Thầy:
- “Chúng con đã bỏ mọi sự và theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?”

Thầy Giêsu đã đáp lại bằng một câu trả lời khá dài.
- Họ sẽ được xét xử các chi tộc Israel, được gấp trăm về mọi sự, và nhất là được hưởng sự sống đời đời (Mt 19, 27-30).

Như thế ở đây Nước Trời được coi như một phần thưởng, một sự trả công Chúa dành cho những ai dám từ bỏ hy sinh. Các môn đệ cho đi, và rồi họ sẽ được lại.

Bài Tin Mừng hôm nay nằm ngay sau câu chuyện trên. Dưới một góc độ nào đó thì cả hai có nội dung rất khác nhau, nhưng bổ túc cho nhau, để ta có một cái nhìn quân bình về Thiên Chúa.

Thiên Chúa không phải chỉ là Đấng công bằng, thưởng công cho những gì chúng ta đã vất vả cố gắng. Người còn là Đấng quảng đại, tốt lành và giàu lòng xót thương.

Dụ ngôn về “người thợ giờ thứ mười một” cho thấy điều đó. Thật ra phải gọi dụ ngôn này là dụ ngôn về “Ông chủ độ lượng”. Trong thế giới thời Đức Giêsu, người ta mướn thợ buổi sáng và trả công cho thợ buổi chiều theo lề luật (Lv 19,13; Đnl 24, 14-15).

Lương công nhật là một quan tiền (denarius), tiền này tạm đủ để nuôi gia đình ở mức căn bản. Dụ ngôn hôm nay có nhiều nét khác thường mà không có lời giải thích.
Ông chủ vườn nho tự mình ra chợ mướn người, thay vì viên quản lý. Những người thợ đứng suốt ngày ngoài chợ (c.6) lại không được ông chủ thấy và mướn từ đầu, dù ông ra chợ nhiều lần. Chỉ nhóm thợ đầu tiên mới được thuê với tiền công rõ ràng, còn ba nhóm sau chỉ được hứa sẽ trả “hợp lẽ công bằng” (c.4). Cuối cùng ba nhóm giữa bị bỏ rơi, để chỉ tập trung vào nhóm đầu và cuối.

Dụ ngôn này trở nên hết sức khác thường với việc ông chủ ra lệnh trả công cho người làm cuối trước. Những người thợ giờ thứ mười một (5 giờ chiều) cả ngày làm có một tiếng, được trả một quan tiền. Điều này hẳn tạo ra niềm hy vọng cho những ai đã làm từ sáng sớm, “đã làm việc nặng nhọc cả ngày, lại bị nắng nôi thiêu đốt” (c.12).

Nhưng rốt cuộc những người thợ đầu tiên cũng chỉ được một quan tiền. Chúng ta cần phải đứng trong hoàn cảnh của họ để xem họ sẽ sửng sốt, thất vọng, buồn bực, tức giận và cằn nhằn ra sao.

Có lẽ chúng ta cũng phản ứng tương tự khi gặp chuyện như vậy. Phản ứng này cũng là phản ứng giận dữ của người anh cả khi biết cha mình đã tiếp đón linh đình sự trở về của đứa con hư hỏng.

Đối với những người thợ, đây rõ ràng là một sự bất công. Bất công nằm ở chỗ làm nhiều, làm ít, nhận lương như nhau.

Nhưng ông chủ không cho đây là một sự bất công, vì ông đã trả cho nhóm thợ làm sớm nhất đúng như đã thỏa thuận.

Những câu cuối của dụ ngôn là những câu đẹp nhất, những câu nói lên bản chất sâu xa của tấm lòng Thiên Chúa. “Tôi muốn cho người làm cuối này như tôi cho anh” (c. 14). Tôi muốn cho họ nhiều như tôi đã cho anh, tôi muốn họ bằng anh: đó là ước muốn, là chọn lựa của Thiên Chúa. Tình thương của Người phá vỡ sự phân biệt người đầu, người cuối, người làm nhiều, làm ít, công nhiều, công ít. “Chẳng lẽ tôi không được phép làm điều tôi muốn với tài sản của tôi sao?” (c. 15).

Thiên Chúa giàu sang nên có quyền rộng rãi thi ân cho kẻ Người muốn. Chẳng ai có thể bắt Người phải đối xử công bình theo kiểu con người. Chẳng ai có quyền hạch hỏi Người vì Người quá sức độ lượng (c.12).

“Hay mắt của anh xấu xa vì tôi tốt lành” (c. 15). Con mắt xấu xa là con mắt khó chịu vì kẻ khác bằng mình, dù không đáng, ghen tỵ với may mắn và hạnh phúc bất ngờ của người khác.

Đức Giêsu khẳng định mình là người tốt lành, đặc biệt trong cách cư xử của Người đối với những tội nhân. Anh trộm lành trên thập giá cũng là người thợ giờ thứ mười một. Anh được hưởng những gì mà người khác phải nỗ lực cả đời.

Nói cho cùng, vấn đề không phải là đáng hay không đáng. Chẳng ai xứng đáng để vào thiên đàng, kể cả các thánh. Hạnh phúc Nước Trời là một ơn ban hơn là một sự trả công hay phần thưởng.

Thiên Chúa vượt lên trên sự sòng phẳng có tính mua bán của con người. Người không phải là nhà buôn, nhưng là người cha tốt lành. Cha thương cả hai con, cả đứa ở nhà phục vụ lẫn đứa bỏ đi bụi đời. Thậm chí đứa hư hỏng hay tật nguyền lại được quan tâm hơn.

Ông chủ vườn nho thương cả những người đứng ngoài chợ suốt ngày mà không được ai mướn. Có thể vì họ kém khả năng, kém may mắn hơn những người khác chăng?

Người thợ giờ thứ mười một đã làm được gì cho vườn nho của ông chủ? Chắc chẳng được bao nhiêu. Nhưng anh ấy đã đứng chờ suốt ngày. Thế giới này lúc nào cũng có những người thợ giờ thứ mười một, “những người không được ai mướn” (c.7), những người cứ đứng chờ vậy thôi, suốt ngày, suốt đời, những người được nhận trễ, chẳng biết mình sẽ được trả lương ra sao. chỉ biết phó thác cho lòng tốt của ông chủ.

Những người này khác với những người làm từ sáng, biết chắc mình sẽ được trả công một quan tiền. Dụ ngôn không nói đến việc người làm cuối reo lên vì được trả công hậu hĩ.

Nhưng chắc là đã có những tiếng reo. Thiên đàng đầy ắp những tiếng reo như thế, kinh ngạc, ngỡ ngàng, thán phục, tri ân… Chẳng có ai vào thiên đàng mà lại không reo lên vì thấy những gì gọi là công đức của mình chỉ là chuyện nhỏ, quá nhỏ để có thể mua được một vé vào thiên đàng.

Người ta cũng sẽ reo lên vì thấy sự có mặt của những người mà ta tưởng chẳng bao giờ có thể lên thiên đàng được. Thiên Chúa không chỉ thấy thời gian làm việc trong vườn nho. Người còn thấy cả thời gian chờ. Nhiều khi chờ còn mệt hơn làm việc. Đừng cằn nhằn! hãy vui với niềm vui của Thiên Chúa, Đấng hạnh phúc khi thấy người ta ngỡ ngàng vì những ơn bất ngờ, vì lòng tốt của Ngài không sao hiểu được.

Hãy vui với những người được Chúa yêu, bất chấp quá khứ của họ. Chúng ta không có quyền buồn như người con cả, khi cha đang vui. Hãy đổi cái nhìn của mình về Thiên Chúa. Như thế chúng ta cũng sẽ thay đổi cách cư xử với anh em.

Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.

9. Nếu bạn yêu thương bạn sẽ biết Thiên Chúa

Làm sao không ghét ông chủ là người nhạo báng những người thợ can đảm khi trả công (trước mặt họ!) cùng một số tiền với những người chỉ làm việc có một tiếng đồng hồ được? May thay các nhà chú giải giúp chúng ta nhận ra hai bài học của dụ ngôn khó hiểu nhưng đẹp đẽ này.

Trước tiên dụ ngôn này cho thấy lòng tốt của Thiên Chúa, một lòng tốt vô cùng, không tính toán và làm cho phỉ nguyện. Thiên Chúa muống trao ban Tin Mừng cho tất cả mọi người, Ngài muốn mở rộng cuộc sống vĩnh cửu cho tất cả mọi người. Thí dụ cuối cùng về người thợ vào giờ thứ mười một chính là ngươì trộm lành trên thánh giá nhận được mức lương rất lớn: “Hôm nay ngươi sẽ được ở cùng ta trên thiên đàng”.

Nhưng dụ ngôn cũng nhằm vào chúng ta: “Bạn hãy coi chừng khi người ta nói rằng Thiên Chúa tốt lành đến mức đó. Nếu bạn khó hiểu thì có lẽ chính bạn là người không tốt”.

Cốt lõi của dụ ngôn này nằm ở câu hỏi của ông chủ nói với kẻ không bằng lòng: “Có phải anh ganh tỵ hay không?”. Cái nhìn của người thợ lành nghề đối với những người bạn quá may mắn thì không có thiện cảm: “Đừng đối xử với những người đến trễ như đối xử với chúng tôi”.

Một lần nữa, Chúa Giêsu muốn thay đổi những người Pharisêu. Ngài biết họ nghĩ rằng: “Chúng tôi làm việc nhiều vì Thiên Chúa”. Điều đó không sai, nhưng từ trên sự tin chắc này họ xét rằng việc Chúa Giêsu quan tâm đến những kẻ xấu xa, những người thu thuế và những người mại dâm là điều không thể chịu đựng được. “Làm sao ngài dám đối xử với họ cũng tốt và thậm chí còn hơn cả chúng ta nữa? Một luât sĩ hay lui tới với hạng người này thì có gì để nói với chúng ta về Thiên Chuá cơ chứ? Người đó biết gì về Thiên Chúa?”

Này nhé, thật sự kẻ nào đó biết đến lòng tốt của Thiên Chúa thì biết tất cả về Ngài. Chúa Giêsu muốn mạc khải lòng tốt này và Ngài đụng chạm với những người nói với Ngài: “Không, không phải hiểu Thiên Chúa như thế đâu”. Có lẽ có điều gì đó kỳ lạ trong phản ứng này, nhưng nếu chúng ta suy nghĩ về thái độ của chúng ta thì chúng ta sẽ nhận thấy rằng tin vào lòng tốt tuyệt vời và phổ quát của Thiên Chúa thì khó hơn là chúng ta nghĩ.

Không gì ngăn nổi, nhúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa yêu thương những người tốt lành nhiều nhất, ghét những người hoài nghi, và thế là chúng ta xét đoán nhân danh Ngài vị linh mục này hoặc người nọ thì độ lượng. “Quan tâm đến những người liêm chính tốt hơn là lân la trong gia đình này hoặc nơi những kẻ vô lại kia”.

Một người ly dị tái hôn nói với tôi: “Trong những cộng đoàn Kitô giáo chúng ta không có nhiều tình thương bao nhiêu”. Một phụ nữ đã lập gia đình với một linh mục không thể chịu đựng nổi: “Nếu bạn biết được tôi bị ruồng bỏ như thế nào”. Và trong chính trị, có cái nhìn kỳ cục về những “người không suy nghĩ cho đúng đắn” biết bao!

Một số người sẽ nói hoan hô, chúng ta sẽ chấp nhận bất cứ cái gì. Hoan hô những người đến vào giờ thứ mười một và những tên trộm lành! Thiên Chúa yêu thương mọi người chứ? Thế thì chúng ta đừng mất công tuân giữ đạo đức làm cái gì nữa.

Còn phải bỏ công sức, cần phải có những người thợ vào giờ thứ nhất. Họ thật may mắn đã được Thiên Chúa nhanh chóng tuyển dụng một cách bình thản. Nhưng Ngài yêu thương những người đến cuối cùng làm sao! Họ sẽ chứng tỏ rằng việc luôn luôn ở gần Chúa đã làm cho họ nhận biết Ngài và tình yêu của Ngài. Than ôi! nếu họ cứng rắn đối với những người đến trễ và những người lầm lạc, họ cố gắng không bao giờ bỏ lễ, thì họ vẫn ở xa Thiên Chúa. Thánh Gioan nói: “Ai không yêu thương, kẻ ấy không nhận biết Thiên Chúa”.

Top